Quy chế tổ chức và hoạt động của Trường Đại học Melbourne, Australia và những đề xuất áp dụng vào VN

TS. Nguyễn Kim Dung

(Viện Nghiên cứu Giáo dục - Trường ĐHSP Tp. HCM)

03-05-2009

Lời mở đầu

Ở các trường đại học (ĐH) phương Tây, hội đồng trường (HĐT) được ra đời từ rất lâu. Trường ĐH được xem là một xã hội thu nhỏ, trong đó có những quy chế, quy định riêng, đặc trưng cho từng trường. Thường HĐT đóng vai trò như một cơ quan lập pháp có quyền đề ra các phương hướng hành động trong quản lý, điều hành, quản trị, và kiểm soát. Ở các trường ĐH các nước, HĐT chịu trách nhiệm về việc đưa ra các sứ mạng của nhà trường như phát triển trí tuệ, xã hội, nhân cách và đạo đức của các đối tượng mà nhà trường phục vụ. HĐT, tùy theo chức năng của trường ĐH mà đề ra các phương hướng phát triển như nhấn mạnh đến các kỹ năng xã hội hay kiến thức hàn lâm; tập trung đào tạo ĐH hay sau ĐH; hướng đến giảng dạy hay nghiên cứu; phục vụ nhà nước hay toàn thể xã hội, kể cả khu vực tư nhân. HĐT cũng có quyền tự chủ trong tài chính, ví dụ như đưa ra các quyết định về ngân sách, phân bổ kinh phí, quyết định số sinh viên trường có thể nhận vào v.v... Để thực hiện được các chức năng đó, trường ĐH cần có các quyền tự chủ cần thiết để có thể tồn tại và phát triển một cách độc lập. Quyền tự chủ đó được thể hiện qua việc trường ĐH có một hội đồng quyền lực riêng của mình. Bài viết này tập trung vào các vấn đề sau đây: 1) giới thiệu lịch sử quá trình hình thành, quy chế tổ chức và hoạt động của HĐT các trường ĐH công lập ở Australia; 2) Minh họa thực tiễn của một số trường ĐH như Trường ĐH Melbourne; và 3) Đề xuất áp dụng vào ĐH công lập Việt Nam trong tình hình hiện nay (đến năm 2015 và 2020).

Lịch sử quá trình hình thành của HĐT các trường ĐH công lập ở AustraliaNhư trình bày ở trên, có thể thấy HĐT là một cơ chế được sử dụng rất phổ biến trong quản trị Giáo dục Đại Học (GDĐH) ở các nước phát triển trên thế giới, trong đó có Australia. Có rất nhiều mô hình và nhiều tên gọi khác nhau để chỉ HĐT như: Board of Trustees, Board of Regents, Board of Governors, University Board, University Council, University Court, v.v... Nhưng tất cả đều có bản chất là một "HĐ cai quản" (Board of Governance) có thẩm quyền cao nhất trong cơ cấu của một trường ĐH (Phạm Phụ, 2004). Nhìn chung, vai trò của HĐT chỉ được phát huy cao nhất khi trường ĐH có quyền tự trị, hay Việt Nam thường hay dùng khái niệm ‘tự chủ' (autonomy). Trong nghiên cứu của chúng tôi về quyền tự chủ ĐH (Nguyễn, 2003), chúng tôi có đề cập đến thế nào là quyền tự chủ của một trường ĐH theo kinh nghiệm thế giới. Xin được trích dẫn một số nội dung quan trọng như sau:

Quyền tự chủ của một trường ĐH được Ashby (1966:196) xác định rõ hơn trong việc nêu ra những yếu tố không thể thiếu như sau: 1) Quyền tự chọn giảng viên (GV) và sinh viên (SV) và quyết định những điều kiện để họ được làm việc trong trường ĐH; 2) Quyền tự đưa ra nội dung chương trình học và tiêu chuẩn cấp bằng; và 3) Quyền phân phối tài chính (trong tài khoản sẵn có) theo những khoản chi tiêu khác nhau.

Theo Massaro (1997:46), các câu hỏi được Fraser (1995) soạn thảo sau đây có thể được xem là bảng hướng dẫn để xác định mức độ tự chủ của một trường ĐH:

1)   Tình trạng hợp pháp (legal status):

  • Trường ĐH có được công nhận trước phápluật như một thể chế riêng biệt không?
  • Trường ĐH có sở hữu riêng không?
  • Trường ĐH có thể ký hợp đồng với các cơ quan khác mà không cần phải xin ý kiến của các cơ quan cấp trên không?

2)   Quyền tự do học thuật (academic authority)

  • Trường ĐH làm thế nào để có được quyền hoạt động học thuật và tổ chức cấp bằng?
  • Quyền đó có phải được xem xét lại và đổi mới không?

3)    Sứ mạng (mission):

  • Trường ĐH có tự quyết định sứ mạng (mục tiêu) của mình không?

4)   Quản trị (governance):

  • Bộ phận quản trị của trường ĐH có được chỉ định bởi những người có thế lực khác không?
  • Bộ phận quản trị của trường ĐH có độc lập với các cơ quan ở cấp cao hơn không?
  • Trường ĐH có trách nhiệm trong việc quản lý và đảm bảo chất lượng không?

5)   Tài chính (financial)

  • Trường ĐH có quyền tự do trong việc quyết định các khoản chi tiêu theo luật tài chính của quốc gia, và các điều kiện hợp đồng về tài chính không?

6)   Với tư cách là người sử dụng lao động (as an employer)

  • Trường ĐH có quyền chỉ định, thuê, thăng chức và cho thôi việc nhân viên của mình mà không cần hỏi ý kiến của người khác không?

7)   Học thuật (academic)

  • Trường ĐH có quyền quyết định trong việc thu nhận SV không?
  • Trường ĐH có phải xin quyết định trong việc tổ chức các khóa học không - xin một lần, hay định kỳ?
  • Trường ĐH có được quyền quyết định chương trình - mục tiêu, nội dung, việc giảng dạy và các phương pháp kiểm tra đánh giá không?
  • Trường ĐH có quyền theo đuổi nghiên cứu trong bất cứ lĩnh vực nào không?

Với quan điểm trên về quyền tự chủ của các trường ĐH, các trường ĐH Australia có một quá trình hình thành và phát triển khá giống nhu các trường ĐH khác trên thế giới, đặc biệt là Châu Âu mà chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau đây.

Trong những năm đầu của thế kỷ 21, dưới tác động của hàng loạt sự sụp đổ của các công ty và các vụ scandal lớn, trên thế giới bắt đầu xuất hiện các xu hướng và nhu cầu đổi mới trong các vấn đề về quản lý, quản trị và lãnh đạo. Hầu hết các nước và OECD bắt đầu giới thiệu các mô hình, hướng dẫn để củng cố tính trách nhiệm và giới thiệu các mô hình tiên tiến về quản trị công, trong đó có quản trị ĐH. Các trường ĐH của Australia và vấn đề quản trị của chúng cũng được liên tục đề cập đến trong các báo cáo của chính phủ liên bang. Trong những năm gần đây, yêu cầu về việc các trường ĐH phải được vận hành như các doanh nghiệp ngày càng mạnh hơn với luận điểm cách điều hành trước đây giờ đã trở nên ‘lỗi thời' và ‘không dẫn đến các quyết định đúng đắn' (Coaldrake, Stedman and Little, 2003). Các trường ĐH Australia buộc phải tăng cường các hoạt động có tính thương mại nhiều hơn và điều này đã làm cho các trường ĐH công lập đối mặt với nhiều rủi ro hơn. Tuy nhiên, điều này giúp cho việc tăng tính trách nhiệm của HĐT và Ban quản trị của trường ĐH nhiều hơn.

Từ lúc trường ĐH đầu tiên của Australia được thành lập (1850), các trường ĐH đã vận hành theo mô hình châu Âu, mà cụ thể là theo mô hình của Anh. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển, có một số khác biệt rõ nét. Hội đồng trường của các trường ĐH Australia, theo chính sách của chính phủ (White Paper - Sách Trắng), được phép là bộ phận đại diện gồm nhiều thành phần, tuy nhiên, mối quan tâm của nhà nước đối với hội đồng đại diện này của các trường ĐH là qui mô và thành phần của HĐT. Phần dưới đây trình bày qui chế tổ chức và các hoạt động của các trường ĐH công lập ở Australia.

Quy chế tổ chức và hoạt động của HĐT các trường ĐH công lập ở Australia

Các trường ĐH công lập Australia nhìn chung kế thừa các hình thức quản trị của các trường Anh trước năm 1992. Trừ một số ngoại lệ không đáng kể, các trường ĐH Australia xây dựng mô hình trường như những thể chế theo đúng qui định của pháp luật, các trường chỉ khác nhau ở một số mức độ nào đó trong mục tiêu và sứ mạng của mình. Dưới đây là các đặc điểm của HĐT ở các Trường ĐH Australia:

1)   Là cơ quan quyền lực chính của trường ĐH, có toàn quyền quyết định và chịu trách nhiệm chính về trường ĐH, trong đó có cả hội đồng khoa học và ban giám hiệu

2)    Có sự thay đổi trong vai trò và thành phần của HĐ, từ việc có vai trò là ‘quốc hội' của trường ĐH và chọn thành viên là những người ngoài trường sang vai trò của một hội đồng có chuyên môn phù hợp để thực hiện vai trò được ủy thác  (trusteeship) của nhà trường. Cụ thể, sự thay đổi này bao gồm việc: a) tăng cường hơn nữa vai trò của các thành viên độc lập ngoài trường; b) Xem các thành viên ngoài trường trong HĐT là một bộ phận trong HĐT hoạt động vì lợi ích của trường ĐH hơn chỉ là đại diện của thành phần bên ngoài nằm trong HĐT, c) Tập trung hơn vào tính chuyên môn và sự kết hợp chặt chẽ của các mong đợi trong sự quản trị trường ĐH thông qua việc ban hành các hướng dẫn và các chương trình nghị sự cũng như cung cấp việc đào tạo cho các thành viên trong HĐT; và d) Cải tiến không ngừng mối quan hệ và đáp ứng nhu cầu của xã hội, đặc biệt là quan hệ cộng đồng bằng cách thường xuyên khảo sát các phản hồi về thành tích và năng lực của sinh viên tốt nghiệp của trường.

Sự khác nhau giữa các trường cũng thường được thể hiện trong sự mong đợi về việc quản trị nội bộ của các hội đồng quản trị và sự độc lập của hội đồng khoa học hay của HĐT. Cụ thể, một số khác biệt trong các HĐT ở các trường ĐH Australia thể hiện ở tính trách nhiệm theo qui định pháp luật trước tiểu bang và lãnh thổ (ở Australia có 6 tiểu bang và 2 lãnh thổ). Các khác biệt bao gồm:

a)    Nhân sự trong thành phần HĐT: Trường ĐH Adelaide, ví dụ, bao gồm sinh viên tốt nghiệp, giảng viên cơ hữu là cựu sinh viên của nhà trường và học viên viên sau ĐH. Tất cả các qui chế hay qui định của trường ĐH đều phải thông qua và được sự phê duyệt của HĐT. Ngoài ra, còn có sự khác biệt trong các qui định về cho phép người ngoài đến tham gia các cuộc họp của HĐT.

b)    Nghĩa vụ: Một số HĐT qui định một trong các nghĩa vụ của thành viên hội đồng là phải thực hiện và hành động vì lợi ích và các mối quan tâm của trường ĐH. Một số trường không có qui định này. Một số trường qui định cụ thể về vai trò và chức năng của HĐT, một số trường không đề cập đến.

c)    Trường ĐH Bond và Trường ĐH Catholic được vận hành như các công ty trong giới hạn của sự bảo trợ (guarantee), Trường ĐH Tư Melbourne là một trường thuộc sở hữu hoàn toàn của Trường ĐH Melbounre trong giới hạn cổ phần.

Để độc giả có thể hình dung được các nét chính về HĐT ở ĐH Australia, chúng tôi chỉ xin được giới thiệu một vài kinh nghiệm về các vấn đề quan trọng như: 1) thành viên; 2) nhiệm kỳ; và 3) trách nhiệm của HĐT.

Thành viên HĐT

Ở Australia, các trường thường có các HĐT riêng của mình, ngoài ra, có thể có một HĐ cho nhiều trường ĐH trong cùng một tiểu bang hay vùng. Thường HĐT gồm có từ 50 đến hơn 100 thành viên, được chỉ định hoặc do bầu lên. Hiện nay, qui mô chấp nhận được của HĐT ở các ĐH Australia là từ 10 đến 15 thành viên (Dawkins, 1988: 102).

•    Thường chủ tịch hội đồng và nhân viên điều hành HĐT (cũng là thành viên của HĐT) được hội đồng chỉ định và làm việc cho hội đồng. Có nơi hiệu trưởng đương nhiên là thành viên của HĐT, tuy nhiên, cũng có nơi hội đồng chỉ định hoặc bầu lên hiệu trưởng cho trường. Có nơi, hội đồng chỉ định chủ tịch hội đồng--người sẽ là hiệu trưởng danh dự hay Chủ tịch HĐT của trường, hiệu trưởng--người chịu trách nhiệm về các hoạt động chủ yếu của trường, và nhân viên điều hành của HĐT.

•    Theo quy định, nhân viên điều hành của HĐT phải tham dự tất cả các cuộc họp HĐT, lưu giữ các ghi chép của tất cả các văn bản của các cuộc họp và đảm bảo toàn bộ các quá trình làm việc của hội đồng theo quy định, trình các văn bản khi đã được duyệt để chủ tịch hội đồng ký, và thực hiện các bổn phận khác mà hội đồng có thể yêu cầu.

•    Tất cả những thành viên được chỉ định đều phải làm việc cho hội đồng theo các quy định và điều lệ. Hội đồng cũng đưa ra các chuẩn mực để công nhận thành viên, xem xét và chấp thuận ngân sách hàng năm của trường, và thiết lập các qui định mà các đơn vị trong trường phải làm theo. Theo luật, mỗi thành viên của hội đồng khi họp đều nhận được tiền lương mỗi ngày cộng với chi phí đi lại và các chi phí khác nếu như không được tính công tại cơ quan mà họ đang làm việc (nếu thành viên là người ngoài trường). Bảng dưới đây cho thấy qui mô của HĐT ĐH ở Australia và số lượng tham gia của những người ngoài trường:                          

 Bảng 1: Qui mô của HĐT Australian và thành phần trong/ngoài trường từ năm 1994  đến  2003

Qui mô       Tỉ lệ người ngoài trường

Tên trường                                                        1994         2003         1994          2003

Charles Sturt University                                      20               19          55%           58%

Macquarie University                                          19               19          63%           63%

The Australian Catholic University                        29               16          62%           50%

Southern Cross University                                   18               18          67%           61%

University of New England                                   19               19          63%           63%

University of New South Wales                            21               21          57%           57%

University of Newcastle                                       18               19          67%           63%

University of Sydney                                           22               22          59%           59%

University of Technology Sydney                         21               21          67%           62%

University of Western Sydney                             26               18          77%           61%

University of Wollongong                                     18               18          67%           67%

Central Queensland University                             22               22          64%           64%

Griffith University                                                25               25          60%           60%

James Cook University                                       35               26          66%           58%

Queensland University of Technology                   23               22          61%           64%

The University of Queensland                              35               35          77%           69%

University of Southern Queensland                      13               22          46%           55%

The Australian National University                        22               22          59%           59%

University of Canberra                                         22               22          68%           50%

Northern Territory University                                21               20          67%           60%

University of Tasmania                                        24               17          54%           53%

La Trobe University                                             35               21          71%           62%

Deakin University                                               24               21          63%           52%

Monash University                                              39               21          59%           67%

RMIT University                                                  34               22          71%           64%

Swinburne University of Technology                     30               22          67%           64%

University of Melbourne                                       40               21          58%           67%

University of Ballarat                                           23               22          70%           55%

Victoria University                                              24               22          63%           68%

Flinders University                                              35               21          49%           57%

The University of Adelaide                                   35               21          54%          57%

University of South Australia                               24               21          54%           57%

Curtin University of Technology                            14               20          57%           65%

Edith Cowan University                                       21               21          71%           71%

Murdoch University                                             25               25          64%           60%

The University of Western Australia                     25               21          68%           57%

Trung bình quốc gia                                        25               21          63%           60%

(Nguồn: Coaldrake, Stedman và Little, 2003)


Nhiệm kỳ của các thành viên

Thường nhiệm kỳ của thành viên các HĐT tương đối khác nhau ở các trường khác nhau, thường là bốn năm, dài nhất là bảy năm, trừ trường hợp các sinh viên chỉ có nhiệm kỳ tối đa là hai năm. Nhiệm kỳ thường kết thúc vào ngày 31 tháng mười hai. Nếu có một thành viên nào đó chưa có người thay thế, sẽ có thể ở lại đến lúc tìm được người khác.

HĐT thường họp một lần trong một tháng. Tuy nhiên, các cuộc họp đặc biệt có thể được tổ chức theo yêu cầu của chủ tịch hội đồng, hoặc của ba hoặc hơn các thành viên. Các quyết định khẩn cấp có thể được hội đồng đưa ra ở giữa các cuộc họp khác nhau, và nếu hoặc khi có vấn đề gì phát sinh, theo ý kiến của chủ tịch hội đồng, hoặc hơn ba thành viên của hội đồng khi họ có các đòi hỏi quyết định của hội đồng trước cuộc họp chính thức kế tiếp. Hội đồng cũng đòi hỏi việc bỏ phiếu theo đường điện thoại, e-mail, bản sao, hay thư điện tử của ít nhất là năm thành viên.

Trách nhiệm của HĐT

HĐT thường phải quyết định những vấn đề lớn có tính chất chỉ đạo như đề ra các hướng đi, nguyên tắc làm việc của trường và các đơn vị, và quyết định sứ mệnh của nhà trường. Ngoài ra các HĐT trường Australia cũng đưa ra các giá trị, chương trình nghị sự, được xem như các mục tiêu của trường.

HĐT có trách nhiệm quản lý ngân sách của nhà trường bao gồm các ngân sách cho các hoạt động sau đây: xây dựng, nghiên cứu, dịch vụ công cộng, hỗ trợ khoa học, dịch vụ sinh viên, hỗ trợ nhà trường, hoạt động và bảo quản máy móc thiết bị, học bổng và trợ cấp. Kinh phí cấp cho các hoạt động này được xem xét lại mỗi năm.

Hiện nay, có ba vấn đề cần lưu ý về Hội trường trường ĐH của Australia như sau: 1) Mối quan tâm về tác động của yêu cầu tăng cường các hoạt động có tính thương mại và vận hành như doanh nghiệp của nhà trường lên trách nhiệm của các trường đối với cộng đồng; 2) Mối quan tâm về sự vượt quyền của các vai trò trong HĐT, ví dụ như một số hiệu trưởng hành động vượt cấp hoặc không đúng với trách nhiệm của mình, hoặc một số chủ tịch HĐT lại can thiệp vào các hoạt động mang tính điều hành; và 3) Sự phát triển vượt quá tính hợp doanh trong quản trị nhà trường, trong đó có cả vấn đề ban hành các qui định bị chi phối từ thị trường chính khoán Australia.

Phần dưới đây sẽ minh họa một trường hợp cụ thể về hoạt động của HĐT của Trường ĐH Melbourne, một trong những trường ĐH hàng đầu Australia.

Hội đồng Trường ĐH Melbourne

Hiện nay, HĐT Trường ĐH Melbourne, Australia gồm có 22 thành viên, như sau:

1) Hiệu trưởng danh dự

2) Hiệu trưởng

3) Chủ tịch Hội đồng chuyên môn

4) Một người được Bộ trưởng chỉ định

5) Sáu người được chủ tịch HĐT chỉ định

6) Sáu người được HĐT chỉ định

7) Ba người được cán bộ Trường bầu lên là: đại diện cho các giáo sư; đại diện cho các giảng viên không phải là giáo sư; và đại diện cho cán bộ công nhân viên nói chung.

8) Hai người được các sinh viên bầu lên

9) Thư ký: là thư ký của Trường

I. Thành viên HĐT

1) Hội đồng trường là hội đồng quản trị của Trường ĐH Melbourne.

2) Hội đồng gồm có:

a) Hiệu trưởng danh dự hay Chủ tịch HĐT;

(b) Hiệu trưởng hoặc Giám đốc Trường;

(c) Chủ tịch Hội đồng chuyên môn

(d) Ba người từ và được cán bộ Trường bầu lên theo đúng như luật quy định;

(e) Hai người được các sinh viên bầu lên theo đúng như luật quy định;

(f) Sáu người được chủ tịch HĐT chỉ định;

g) Một người do Bộ trưởng chỉ định

h) 6 người do HĐT chỉ định

3) Nếu như Chủ tịch Hội đồng Khoa học không phải là giáo sư hay phó giáo sư, một trong các thành viên của cán bộ giáo viên được bầu theo điều 2)d) phải được các giáo sư và phó giáo sư bầu lên.

4) Đối với những thành viên được chỉ định theo điều khoản 2) f) và h)

a) có một người phải có kinh nghiệm đáng kể trong lĩnh vực kinh doanh

b) có một người phải có bằng cấp và kinh nghiệm trong lĩnh vực tài chính

5) Không có quá 3 người mà hội đồng bầu lên theo điều 2) f) và h) là những người mà nơi sinh sống thường xuyên của họ ở ngoài Australia.

II. Nhiệm kỳ và các điều kiện làm việc của thành viên HĐT

1) Theo điều lệ HĐT, thành viên của HĐT

a) được Chủ tịch HĐT, Bộ trưởng, hay HĐT chỉ định có nhiệm kỳ đến hết ngày 31 tháng 12 năm thứ hai tiếp theo năm mà thành viên đó được chỉ định bắt đầu có hiệu lực;

b) được cán bộ giáo viên bầu lên có nhiệm kỳ đến hết ngày 31 tháng 12 năm tiếp theo năm mà thành viên đó được bầu bắt đầu có hiệu lực;

c) được sinh viên bầu lên có nhiệm kỳ đến hết ngày 31 tháng 12 trong năm mà thành viên đó được bầu bắt đầu có hiệu lực;

2) Thành viên của Hội đồng được Chủ tịch HĐT chỉ định có thể bị Chủ tịch HĐT bãi nhiệm bất cứ lúc nào.

3) Thành viên của Hội đồng được Bộ trưởng chỉ định có thể bị Bộ trưởng bãi nhiệm bất cứ lúc nào.

4) Nếu một thành viên của HĐT được quyền là thành viên đương nhiên

a) thành viên đó được xem là đương nhiên giữ đến hết nhiệm kỳ; và

b) nhiệm kỳ của thành viên đó sẽ được thay thế khi có người thay thế thành viên đó

theo đúng luật khi tìm được người cho chức vụ đó.

5) Bất cứ thay đổi thành viên nào, hay khi có thay đổi về chức danh khoa học của các

thành viên trong HĐT theo điều I) 2) c) cũng không có tác động đến việc ai đó được bầu là thành viên của HĐT theo điều I)2) d) trong suốt nhiệm kỳ theo điều I) 2)d).

6) Thành viên được bầu hay được chỉ định vào hội đồng, nếu không phải là thành viên biên chế của Trường, thì tùy theo sự suy xét của Hội đồng, có thể được trả tiền thù lao hay tiền phí phù hợp với thời gian làm việc do Bộ trưởng quyết định cho thành viên đó.

7) Các thành viên sau đây sẽ không được trả thêm lương hay nhận thêm bất cứ tiền thù lao, phí, tiền trợ cấp hay phụ phí khi làm việc cho HĐT

a) là thành viên của Quốc hội Liên bang hay Hội đồng Lập pháp hay Cơ quan Lập pháp;

b) Chánh án và các Tòa án của Tòa án Tối cao của Australia.

8) Thành viên của Hội đồng không được lập văn phòng kinh doanh có lợi nhuận mà

a) ngăn cản thành viên đó có ghế hay được quyền bầu như là một thành viên của Hội

đồng Lập pháp hay Cơ quan Lập pháp; hoặc

b) hủy bỏ quyền được bầu của thành viên đối với Hội đồng Lập pháp hay Cơ quan Lập pháp;

c) ngăn cản thành viên đó tiếp tục là thành viên của Hội đồng Lập pháp hay Cơ quan Lập pháp; hay

d) là nguyên nhân của việc thành viên chịu trách nhiệm trước pháp lý hay bị trừng phạt theo Hiến pháp 1975.

III. Việc bầu hay chỉ định thành viên

1) Theo các điều lệ bầu cử các thành viên của HĐT phải tuân theo các quy định của nhà trường;

2) Quy định có thể cho phép bầu theo đường bưu điện và bầu theo quyền ưu đãi hay bầu theo tỉ lệ đại diện khi có các quy định về quyền đại diện theo tỉ lệ;

3) Trong trường hợp bầu hay chỉ định các thành viên hội đồng khi có các thành viên về hưu hay hết nhiệm kỳ

a) Việc bầu hay chỉ định các thành viên phải được tiến hành trong vòng ba tháng hoặc, trong trường hợp một thành viên được sinh viên bầu lên, trong vòng 6 tháng trước khi các thành viên khác hết nhiệm kỳ và nhiệm kỳ của thành viên mới sẽ bắt đầu ngay khi nhiệm kỳ của thành viên cũ kết thúc;

b) Việc chỉ định các thành viên sẽ được bầu vào sẽ được tiến hành ngay trong ngày họp của hội đồng hoặc càng nhanh nếu có thể ngay sau ngày họp đó.

IV. Các ghế trống

Sẽ được bầu vào trong bất cứ trường hợp nào sau đây:

a) trong bất cứ cuộc bầu cử các thành viên được bầu của hội đồng mà

i) không có ghế hay chỗ trống nào được lấp vào; hay

ii) một thành viên của các ghế hay chỗ trống ít hơn tổng số cần phải được lấp vào được lấp; hay

b) bất cứ cuộc bầu cử nào như thế phải được tổ chức mà chưa được tổ chức - các ghế hay chỗ trống cần phải được lấp vào và chưa được lấp vào sẽ được xem như các trường hợp có các chỗ còn trống không cố định theo từng trường hợp riêng lẻ; và các thành viên cuối cùng cũng lựa chọn để lấp đầy các chỗ đó sẽ được quyền tiếp tục làm việc như là được bầu trong các cuộc bầu cử tương tự.

V. Ghế của một thành viên trong HĐT bị xem là trống

Nếu như một thành viên nào đó của HĐT -

a) không còn giữ các khả năng chuyên môn cần thiết được yêu cầu để có thể trở thành thành viên HĐT; hay

b) không phải là thành viên đương nhiên-

(i) chính tay mình viết đơn từ chức gởi trực tiếp cho Hiệu trưởng danh dự hay Chủ tịch HĐT của Trường;

(ii) được ủy ban hay các hội đồng tương tự tuyên bố là mất trí;

(iii) bị phá sản hay vỡ nợ;

(iv) phạm tội có thể bị truy tố;

(v) không có sự cho phép đặc biệt nào của HĐT mà vắng mặt trong tất cả các cuộc họp HĐT trong thời gian sáu tháng liên tiếp; hay

(vi) bị truất phế- ghế của thành viên ấy sẽ thành chỗ còn trống

VI. Lấp các chỗ trống

(1) Bất cứ chỗ trống nào của các thành viên được bầu hay được chỉ định của HĐT sẽ được lấp vào bằng việc bầu hay chỉ định một thành viên khác;

(2) Thành viên được bầu hay được chỉ định như thế phải có các phẩm chất (nếu được đòi hỏi) như thành viên trước kia ở vị trí đó;

(3) Việc bầu cử hay chỉ định sẽ được người hay tổ chức mà trước đây đã bầu hay chỉ định người từng ngồi ở ghế đó;

(4) Theo Luật này một thành viên được bầu hay được chỉ định sẽ ngồi vào chỗ còn trống đó sẽ có quyền giữ chỗ đó cho đến khi hết nhiệm kỳ của thành viên trước kia mà bây giờ ông/bà ta thay thế, với điều kiện là nếu như chỗ trống đó có trước ba tháng trước khi hết nhiệm kỳ của thành viên được bầu hay được chỉ định sẽ không bị bắt buộc phải được lấp ngay trong khoảng thời gian còn lại của nhiệm kỳ;

(5) Không kể điều 5(2)(f), Bộ trưởng, sau khi hội ý với Hiệu trưởng danh dự hay Chủ tịch HĐT của Trường, có thể chỉ định một người thay thế vào chỗ còn trống trong thành viên HĐT thế cho thành viên trước đây mà theo điều khoản này đòi hỏi sự chỉ định của Chủ tịch HĐT.

VII. Bầu Hiệu trưởng danh dự hay Chủ tịch HĐT và Hiệu trưởng

(1) Các thành viên HĐT đôi khi phải bầu một người, bất kể người đó có là thành viên của HĐT hay không, làm Hiệu trưởng của Trường trong nhiệm kỳ và với các điều kiện như đã quy định theo luật;

(2) Bất cứ người nào được bầu làm Hiệu trưởng nếu như ông ta không phải là thành viên của HĐT sẽ và vẫn tiếp tục là thành viên đương nhiên của HĐT trong nhiệm kỳ hiệu trưởng của mình;

(3) Các thành viên HĐT đôi khi phải bầu không quá hai người thành viên của HĐT làm Phó hiệu trưởng của Trường trong nhiệm kỳ như vậy và với các điều kiện như đã quy định theo luật;

(4) Trong trường hợp Hiệu trưởng vắng mặt hay trong thời gian ghế này còn trống chỗ hay trong trường hợp Hiệu trưởng không có khả năng hành động hay trong bất cứ trường hợp nào có sự đồng ý của Hiệu trưởng một Phó hiệu trưởng sẽ có các quyền lực và bổn phận như Hiệu trưởng trong HĐT trong thời gian đã định;

(5) Các chức vụ nào có thể được bầu theo đường bưu điện và các hình thức bầu được chọn khác trong bất cứ cuộc bầu cử nào được tổ chức với mục đích như đã định trong điều khoản này.

VIII. Chủ tịch

Trong mỗi một cuộc họp HĐT Hiệu trưởng hay, nếu như Hiệu trưởng vắng mặt, Phó hiệu trưởng được chọn trong cuộc họp sẽ chủ trì cuộc họp; và nếu như cả Hiệu trưởng và Phó hiệu trưởng đều vắng mặt, các thành viên trong HĐT sẽ bầu ra một chủ tịch.

IX. Trách nhiệm của thành viên HĐT

(1) Thành viên HĐT có trách nhiệm với HĐT trong việc đẩy mạnh và phát triển các mục đích của HĐT và mục tiêu của Nhà trường hơn cả người hoặc những người bầu lên hay chỉ định các thành viên ấy.

(2) Thành viên HĐT không được sử dụng một cách bất chính bất cứ thông tin nào mà trên cương vị của mình anh ta có thể nhận được tiền một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc với mục đích có lợi cho ông/bà ta hay bất cứ người nào khác.

X. Các quyền lợi về mặt tiền bạc của các thành viên HĐT

(1) Một thành viên của HĐT có quyền lợi tài chính trong những vấn đề mà HĐT xem xét hay sẽ xem xét phải, càng nhanh chóng càng tốt, sau khi ông hay bà ta nhận biết được các sự kiện có liên quan thích đáng đến việc này, công bố bản chất của quyền lợi đó trong cuộc họp HĐT hay bằng văn bản gởi đến Hiệu trưởng;

(2) Nếu như Hiệu trưởng nhận được văn bản công bố theo điều khoản phụ (1), Hiệu trưởng phải báo cáo hay yêu cầu báo cáo về việc này ở cuộc họp HĐT tiếp theo;

(3) Người chủ trì cuộc họp có bảng công bố theo điều khoản (1) hay được báo cáo theo điều khoản (2) phải yêu cầu ghi chép lại công bố này vào các biên bản của cuộc họp;

(4) Sau khi thông cáo theo điều khoản (1) đã được một thành viên HĐT công bố

(a) Trừ phi HĐT ra chỉ thị khác, thành viên đó không được có mặt trong suốt thời gian tranh cãi có liên quan đến vấn đề này;

(b) Thành viên đó không được quyền bỏ phiếu về vấn đề này; và

(c) Nếu như thành viên đó bỏ phiến về vấn đề này, phiếu đó sẽ được xem là không hợp lệ.

XI. Các vấn đề về cách giải quyết

(1) Tùy thuộc vào bất cứ luật nào theo điều khỏa phụ (4), tất cả các vấn đề được trình bày trong bất cứ các cuộc họp nào trước HĐT cũng sẽ được quyết định bằng cách lấy ý kiến của đa số các thành viên có mặt trong cuộc họp;

(2) Chủ tịch trong bất cứ cuộc họp nào như vậy cũng đều có một phiếu bầu và trong trường hợp các phiếu bầu có số lượng là số chẵn, sẽ có quyền bỏ thêm một phiếu quyết định;

(3) Không vấn đề nào được quyết định trong bất cứ cuộc họp HĐT nào trừ phi có ít nhất là tám thành viên có mặt trong cuộc họp đó;

(4) HĐT theo quy định sẽ đưa ra các nghị quyết cụ thể, hay nghị quyết về các trường hợp cụ thể, và các nghị quyết đó chỉ có hiệu lực trong trường hợp được đa số các thành viên có mặt trong các cuộc họp bỏ phiếu hay được đa số nào đó các thành viên trong HĐT đồng ý;

(5) Tùy thuộc vào Luật này và các luật hay quy định của HĐT, HĐT có thể điều chỉnh các qui trình làm việc của mình.

XII. Các nghị quyết mà không có các cuộc họp HĐT

(1) Nếu như đa số các thành viên tại vị của HĐT ký vào một văn kiện có chứa đựng một tuyên bố nào đó được Hiệu trưởng hay là nhân danh hiệu trưởng chuyển đến mà các thành viên đó tán thành, nghị quyết trong các điều kiện đó cũng được xem như là đã được thông qua trong cuộc họp vào ngày mà văn kiện được ký vào, hoặc, vào ngày mà thành viên cuối cùng ký vào, nếu như các thành viên không ký trong cùng một ngày;

(2) Nếu như một nghị quyết, theo điều khoản phụ (1), được xem là đã được thông qua trong cuộc họp của HĐT, mỗi thành viên đều phải được thông báo càng sớm càng tốt và nhận được một bản photo có liên quan đến nghị quyết đó;

(3) Theo điều khoản phụ (1), hai hay hơn các văn kiện riêng rẽ có chức năng tuyên bố của cùng các vấn đề, và mỗi một cái đều được một hay nhiều thành viên ký vào, sẽ được xem như là một văn kiện;

(4) Trong điều khoản này, "thành viên," trong mối liên quan đến một nghị quyết, không bao gồm thành viên không được quyền bỏ phiếu về nghị quyết đó vì một lý do nào đó trong điều khoản 3.

XIII. HĐT chỉ định cán bộ công nhân viên và có quyền quản lý hoàn toàn trong Nhà trường

(1) HĐT có quyền lực tuyệt đối trong việc chỉ định và sa thải tất cả các giáo sư, cán bộ, và công nhân viên của Trường, có quyền quản lý hoàn toàn và giám sát tất cả các công việc và tài sản của nhà trường, tùy thuộc vào các đạo luật hay quy định của nhà trường;

(1A) Không hạn chế sự khái quát trong điều khoản phụ (1), HĐT có, và được cho rằng luôn luôn có quyền thiết lập và quản lý công ty nghệ thuật, Công ty Nhà hát Melbourne mà trước kia được gọi là Nhà hát Công đoàn, như ngay từ phần đầu của điều khoản phụ này;

(2) (a) Không hạn chế sự khái quát trong điều khoản phụ (1) của điều khoản này HĐT có thể chỉ định hoặc sa thải hiệu trưởng và giám đốc;

(b) Theo điều khoản này, hiệu trưởng và giám đốc sẽ là những người điều hành của nhà trường và như thế sẽ có quyền lực và nhiệm vụ như đã được bàn bạc hay bắt buộc theo luật và quy định của Nhà trường;

(ba) Chỉ trừ phi có sự thay đổi tuyệt đối theo luật hay qui định, hiệu trưởng và giám đốc có thể ủy quyền và giao nhiệm vụ cho bất cứ cá nhân hay các cá nhân nào;

(bb) Mỗi sự ủy quyền theo điều khoản phụ(ba) đều có thể bị hiệu trưởng hay giám đốc thu hồi lại và sẽ không ngăn được việc tiến hành hay thực hiện quyền hành hay nhiệm vụ của hiệu trưởng hay giám đốc;

(bc) Nếu như người được chỉ định làm quyền hiệu trưởng và giám đốc chiểu theo luật của Nhà trường trong thời gian hiệu trưởng hay giám đốc đi vắng hay vắng mặt vì lý do sức khỏe hay vì lý do nào đó, người được chỉ định sẽ, trong suốt thời gian được chỉ định, có tất cả các quyền hành và nhiệm vụ của hiệu trưởng hay giám đốc và sẽ là thành viên đương nhiên của HĐT thay vào chỗ hiệu trưởng hay giám đốc;

(c) Không hạn chế sự khái quát trong điều khoản phụ (1) của điều khoản này HĐT có thể chỉ định hay sa thải các hiệu phó;

(d) Theo điều khoản này, hiệu phó sẽ có quyền hạn và nhiệm vụ như đã được bàn bạc hay bắt buộc theo luật và quy định của Nhà trường;

(3) (a) Không hạn chế sự khái quát trong điều khoản phụ (1), HĐT có thể mỗi năm chỉ định hai hiệu phó chuyên môn, một trong hai người, tại ngày tháng chỉ định, sẽ là chủ tịch hội đồng chuyên môn.

(b) Theo điều khoản này, mỗi hiệu phó chuyên môn sẽ có quyền hạn và nhiệm vụ như đã được bàn bạc hay bắt buộc theo luật và quy định của Nhà trường.

XIV. Các ủy ban và sự ủy quyền

(1) HĐT theo nghị quyết có thể thành lập hay chỉ định các ủy ban nếu như HĐT nghĩ là phù hợp (ít nhất là một phần ba thành viên của các ủy ban như thế phải là thành viên của HĐT) và có thể ủy quyền hoàn toàn hay một phần các nhiệm vụ và chức năng của mình (khác với việc ủy quyền này và quyền làm luật hay quy định) cho ủy ban đó hoặc cho bất cứ thành viên nào của HĐT hay cán bộ nhà trường;

(2) Bất cứ sự ủy thác nào theo điều khoản này đều có thể bị hủy bỏ theo nghị quyết của HĐT và không có sự ủy thác nào có thể ngăn được việc HĐT thực hiện hay hủy bỏ các ủy quyền về nhiệm vụ hay chức năng.

XV. Sự đảm bảo bồi thường cho các thành viên HĐT và những người khác

Nhà trường sẽ đảm bảo việc bồi thường cho từng thành viên HĐT và ủy ban được lập ra theo nghị quyết của HĐT hoặc theo luật hay quy định về tất cả các hoạt động của các thành viên đó cho dù chúng có phù hợp với các đòi hỏi hay yêu cầu hay không (cả trong thời gian hoạt động hay sau một nhiệm kỳ của thành viên đó).

XVI. Quyền lực của HĐT trong việc đưa ra các luật và quy định

(1) HĐT, theo Đạo luật này, sẽ có và được cho rằng luôn luôn có đầy đủ quyền lực để làm và thay đổi bất cứ đạo luật và quy định nào về bất cứ vấn đề gắn liền với Nhà trường và, cụ thể là không làm phương hại đến nguyên tắc chung đã được đề cập đến ở trên, về--

(a) tổ chức, quản lý và quản trị tốt Nhà trường;

(b) thuê mướn nhân viên;

(c) những người đã về hưu và những người sống phụ thuộc vào họ;

(d) kỷ luật;

(e) đồng phục;

(f) con dấu chung;

(g) quyền copy và sáng chế;

(h) các kỳ thi công khai;

(i) sinh viên;

(j) các khoá học;

(k) các tín chỉ trong các khoá học của Trường và những khóa đã học xong ở đâu đó;

(l) các phần thưởng chuyên môn;

(m) học phí nhà trường quy định;

(n) bảo hiểm;

(o) các tổ chức, tiện nghi và các dịch vụ về bản chất là không thuộc về chuyên môn;

(p) tài sản, các toà nhà và giao thông trong trường;

(q) nghiên cứu, phát triển, tư vấn và các dịch vụ khác mà nhà trường thực hiện cho các tổ chức, cơ quan nhà nước và các cá nhân trong lĩnh vực thươngmại;

(r) sự công nhận của các trường ĐH hay cơ quan mà ở đó--

(i) công việc do sinh viên ĐH hay sau ĐH của Trường thực hiện nhằm đáp ứng được yêu cầu về bằng cấp của Nhà trường; hoặc

(ii) nghiên cứu được hay có thể đượcgiảng viên hay cán bộ nghiên cứu của Trường thực hiện; hoặc

(iii) bất cứ việc nào khác được thực hiện nhằm hỗ trợ Trường duy trì bất cứ môn học nào của mình;

(s) các dự án giảng dạy, nghiên cứu và giáo dục thường xuyên ở trong hay ngoài Victoria do Trường thực hiện với các tổ chức, cơ quan nhà nước, hay các cá nhân thuộc lĩnh vực thương mại;

(t) bất cứ các vấn đề có liên quan đến-

(i) HĐT có thể vì điều khỏan khác của Luật này mà đưa ra các luật và quu định; hoặc

(ii) việc đưa ra các luật hay quy định cho việc quản trị tốt nhà trường hay để quản lý các công việc của Trường là rất cần thiết hay thiết thực

(2) Bất cứ Luật nào của HĐT cũng có thể cung cấp cho

(a) việc đưa ra các quy định, hoặc do HĐT, nếu Luật này ủy quyền, hoặc do Hiệu trưởng để hay đối với việc quy định hay cung cấp bất cứ vấn đề hay sự vật với mục đích của Luật này;

(b) cách thức công bố bất cứ quy định nào;

(c) sự hủy bỏ hay sửa đổi bất cứ quy định nào như thế.

XVII. Sự sáp nhập các trường và quản lý chỗ ở của sinh viên

(1) HĐT, theo Luật này, có quyền lực tuyệt đối trong việc đưa ra hay thay đổi các đạo luật về sự sáp nhập hay kết giao giữa Nhà trường với bất cứ trường hay cơ quan giáo dục nào khi bộ phận chủ quản của trường hay cơ quan giáo dục đó đồng ý, và về việc cấp giấy phép và hướng dẫn của những nơi có ý định nhận sinh viên vào và việc hủy bỏ các giấy phép đó: Luôn luôn với điều kiện là không có luật nào ảnh hưởng đến tín ngưỡng tôn giáo hay các quy định bắt buộc trong trường hay cơ quan giáo dục đó;

(2) Không kể đến các thành kiến có thể có đối với các điều khoản của điều khoản phụ vừa nêu lên trên đây HĐT theo Luật này có quyền lực tuyệt đối trong việc đưa ra hay thay đổi đối với các điều sau đây--

(a) việc thành lập của HĐT các ký túc xá hay nhà ở cho sinh viên;

(b) việc kiểm soát quản lý và đóng cửa bất cứ các ký túc xá hay nhà ở nào;

(c) sắp xếp nhà ở cho sinh viên; và

(d) thực hiện, với sự đồng ý của chủ hay hội đồng quản trị của bất cứ ký túc xá hay nhà ở mà không do HĐT thành lập, quyền hạn kiểm soát và quản lý theo mối quan hệ với bất cứ ký túc xá hay nhà ở nào;

(3) HĐT có thể đưa ra hoặc thay đổi các luật về sự liên kết của bất cứ các tổ chức hay cơ quan giáo dục, thương mại, văn hoá, thể thao hay các trường khác với Trường nếu--

(a) mối liên kết đó sẽ hỗ trợ trong việc duy trì các môn học của Trường; và

(b) bộ phận chủ quản của trường, tổ chức, hay cơ quan đó đồng ý liên kết.

XVIII. Quyền hạn của HĐT trong việc cấp bằng

(1) Theo luật và quy định của Trường, HĐT có quyền lực tuyệt đối và sẽ được cho rằng luôn có công nhận bằng cấp, diplom, giấy chứng nhận, giấy phép và các văn bằng khác trong bất cứ  ngành học nào trừ thần học, với điều kiện là các luật hay quy định có thể được đặt ra -

(a) cho việc thu nhận mà không cần xem xét đến bằng cấp của bất cứ ai đã tốt nghiệp ở Trường; và

(b) cho việc thu nhận honoris causa bằng cấp của bất cứ ai cho dù họ có tốt nghiệp ở Trường hay không;

(2) Nếu luật đã định rằng HĐT có thể, trong các trường hợp và cách thức đã được quy định trong luật đó, thu hồi bất cứ bằng cấp, diplom, giấy chứng nhận, giấy phép hành nghề hay các văn bằng khác đã được Trường phát hoặc trao, cho dù có là trước hay là sau khi phát bằng của điều 15 (2) của Luật Đại học (đã được sửa đổi tiếp) có hiệu lực vào năm 1995.

XIX. Sự phê chuẩn các qui trình cho dù có trống chỗ hay chưa đủ phẩm chất

Không có qui trình hoạt động nào của HĐT hay bất cứ ủy ban nào có thể bị làm cho mất hiệu lực hay bị cho là trái luật chỉ vì lý do là có một số ghế trống của một số thành viên HĐT tại thời điểm hoạt động; và tất cả các qui trình hoạt động của HĐT hay của một ủy ban nào đó, hay của cá nhân nào hoạt động như một thành viên của HĐT do đó mà có thể bị bỏ đi, cho dù sau đó có thể có phát hiện là có một số thiếu sót trong việc bầu cử hay chỉ định các thành viên của HĐT hay những người hoạt động như đã nói trước kia, hay rằng bất cứ ai trong số họ không đủ tư cách trở thành thành viên của HĐT cũng sẽ có giá trị như mỗi người được chọn hay chỉ định đầy đủ và có đủ tư cách để trở thành thành viên HĐT.

Những đề xuất áp dụng vào ĐH công lập Việt Nam trong tình hình hiện nay (đến năm 2015 và 2020)

Hội đồng trường, theo định nghĩa của Điều lệ trường ĐH của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam ký ngày 30 tháng 7 năm 2003, là "là cơ quan quản trị của trường ĐH. Hội đồng trường quyết nghị các chủ trương lớn để thực hiện quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm của trường ĐH được nhà nước giao theo quy định của pháp luật và theo điều lệ" của Thủ tướng Chính phủ.

Các định nghĩa và câu hỏi hướng dẫn được đề cập ở phần trước cho thấy được mức độ tự chủ của một trường ĐH và các yếu tố quyết định quyền tự chủ đó. Với các câu hỏi đó, có thể thấy rõ rằng các trường ĐH Việt nam trong những năm qua còn bị hạn chế rất nhiều trong các lĩnh vực hoạt động do cơ chế tập trung mà điều kiện phát triển xã hội, kinh tế, và trình độ dân trí là các nguyên nhân chính. Tuy nhiên, cùng với sự đổi mới trong hướng đi và quyết tâm cải tổ giáo dục ĐH, cơ chế dành cho các trường ĐH đã bắt đầu mở ra các triển vọng mới. Với sự ra đời của Quy chế HĐT do Thủ tướng Chính phủ, có thể thấy Nhà nước đã bắt đầu từng bước trao quyền tự chủ cho các trường ĐH. Để thực hiện được tính tự chủ của mình, điều cần làm trước mắt của các trường trong giai đoạn sắp đến, là thành lập một Hội đồng chủ quản trong đó có các thành viên đại diện của những người hưởng lợi (stakeholders) từ giáo dục ĐH.

Với suy nghĩ như thế, chúng tôi đã giới thiệu một mô hình HĐT trên thế giới, cụ thể là ở Australia, để các trường ĐH Việt nam tham khảo. Các giới thiệu này không nằm ngoài mục đích chính là trao đổi và học tập kinh nghiệm của các nước có nền giáo dục ĐH tiên tiến và lâu đời. Tất nhiên, ngoài việc tham khảo các kinh nghiệm đó, chúng ta bao giờ cũng hiểu rằng để áp dụng một mô hình vào Việt nam với các khác biệt văn hoá, xã hội, và kinh tế luôn đòi hỏi ngoài tinh thần vượt khó, còn có sự thận trọng, mềm dẻo, và sáng tạo để có thể phù hợp với văn hoá, giá trị, và điều kiện phát triển của giáo dục Việt nam.

Dù muốn hay không, các trường ĐH Việt nam cũng phải đương đầu với các thử thách mới nếu như muốn hoà nhập và tồn tại phát triển trong kỷ nguyên mới. Việc thành lập HĐT là một xu thế tiến bộ, thông qua đó khẳng định quyền tự chủ của các đơn vị giáo dục của một nền giáo dục độc lập và tự chủ. Trên tinh thần đó chúng tôi xin có một vài đề nghị sau đây:

1)      Cần tăng nhanh tiến độ thành lập HĐT ở các trường ĐH công lập. Có thể thấy trong thời gian vừa quan, yêu cầu thành lập HĐT theo Điều lệ Trường ĐH đã chưa được các trường tuân thủ. Phần lớn các trường ĐH công lập hiện nay chưa tiến hành các thủ tục cần thiết cũng như chưa có sự chuẩn bị chu đáo cho việc thành lập HĐT. Điều này cho thấy sự bất cập trong việc điều hành cũng như việc phân công quyền lực giữa các bộ phận lãnh đạo cũng như điều hành trong các trường ĐH;

2)      Có thể thấy rõ Bộ Giáo dục Đào tạo đang từng bước đẩy nhanh tiến độ trao quyền tự chủ cho các trường ĐH công lập. Điều này thể hiện rõ trong Dự thảo Chiến lược Phát triển Giáo dục 2009-2020. Trong thời gian đến, rõ ràng việc HĐT được thành lập trong các trường ĐH là không thể không được chú ý. Tuy nhiên, việc tiến hành thành lập HĐT ở các trường công lập nên được tiến hành từng bước thận trọng, trong đó việc để cho các trường ĐH có quyền quyết định mô hình HĐT riêng của mình là một việc làm cần thiết cần được nghiên cứu. Điều đó cũng dễ hiểu vì nếu có sự ‘dìu dắt' của Nhà nước trong việc ‘dạy' cho các trường biết tự chủ là một việc làm phản tác dụng và làm mất đi ý nghĩa thực sự của HĐT. Tất nhiên, Nhà nước sẽ đóng vai trò giám sát khi có sự vi phạm về các nguyên tắc chủ đạo trong việc xây dựng HĐT của các trường;

3)      Qua đợt đánh giá ngoài thí điểm 20 trường ĐH đầu tiên của Việt Nam, có thể rút ra kết luận là HĐT, đã được thành lập ở một số trường ĐH, đã không phát huy được vai trò của mình. Các hội đồng này chưa thực sự là bộ phận quyền lực của các trường ĐH. Một số thành viên của HĐT này chỉ mang tính danh nghĩa. Vì vậy, chúng tôi đề nghị các trường nên xem lại thành phần trong HĐT. Các thành viên của HĐT của các trường phải thực sự là những người được sự tín nhiệm từ các thành phần chủ yếu của  nhà trường như: cộng đồng và chính quyền địa phương, giáo viên, sinh viên...bên cạnh những thành viên là thành phần đương nhiên của HĐT. Việc đưa người ngoài trường vào HĐT là cần thiết, đáp ứng yêu cầu nhà trường gắn với doanh nghiệp của nhà nước và nhu cầu đào tạo nhân lực đáp ứng yêu cầu xã hội của Việt Nam trong giai đoạn sắp đến;

4)      Qui mô của HĐT trong các trường ĐH Việt Nam, theo kinh nghiệm thế giới và thực tế nghiên cứu ở Việt Nam trong các đợt đánh giá ngoài các trường ĐH vừa qua, theo chúng tôi, là từ 15 đến 25 người với đại diện của tất cả những người hưởng lợi từ GDĐH;

5)      Với các bất cập đã được nêu trên về sự phân chia quyền lực trong trường ĐH, chúng tôi cho rằng phải có sự phân chia trách nhiệm rõ ràng giữa HĐT, hiệu trưởng và Đảng ủy để không xảy ra trường hợp trách nhiệm không rõ ràng làm trói tay nhau trong quá trình làm việc. Thiết nghĩ, giải quyết vấn đề này cũng thể hiện sự ‘tự chủ' của một  trường ĐH;

6)      Hơn bao giờ hết, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần đóng vai trò giám sát hơn là làm thay việc cho các trường. Khi các trường đã có thể đứng vững trên đôi chân của mình, chức năng giám sát và xử lý của Bộ càng thể hiện rõ vai trò nhà nước của mình trong quản lý. Chúng tôi cho rằng hỗ trợ các trường trong việc thành lập HĐT là một cách trao quyền tự chủ cho các trường một cách hiệu quả nhất của Bộ trong giai đoạn sắp đến.

Tài liệu tham khảo

  • Ashby, E. (1966). Universities, British, Indian, African. London: Weidenfeld and Nicolson.
  • Coaldrake, P., Stedman, L., Little, P. (2003). Issues in Australian University Governance. Lấy từ trang Web theo địa chỉ:  http://www.chancellery.qut.edu.au/vc/governancefinal.pdf ngày 10 tháng 01 năm 2009.
  • Massaro, V. (1997). Institutional responses to quality assessment in Australia. In Brennan, J., Vries, P., and Williams, R. (Eds.). Standards and Quality in Higher Education. London: Jession Kingsley.
  • Nguyễn, Kim Dung (2003). Tự chủ ĐH trong thiết kế chương trình giảng dạy. Tạp chí Giáo dục 60 (6), 9-12.
  • Phạm, Phụ (2004). Về cơ chế hội đồng trường ở trường đại học. Kỷ yếu "Xây dựng và Phát triển Hội đồng Trường ở các Trường Đại học Việt Nam", do Viện Nghiên cứu Giáo dục và Trung tâm Đào tạo Khu vực SEAMEO tổ chức ngày 20 tháng 02 năm 2004 tại Tp. Hồ Chí Minh.

(Nguồn: Viện nghiên cứu giáo dục đại học sư phạm TP HCM)