Giả sử rằng lúc đầu tinh thần là một tấm bảng trắng, sạch trơn mọi thứ ký tự, không có bất kỳ ý tưởng nào (tabula rasa): làm thế nào, từ trạng thái ấy, nó tiếp nhận được những ý tưởng? Bằng cách nào mà tinh thần* có được số lượng ý tưởng phi thường mà óc tưởng tượng của con người, luôn luôn hoạt động và vô hạn, thể hiện cho nó, với một sự đa dạng gần như vô tận?...
Trong sự hình thành khái niệm, tinh thần bắt đầu từ đâu? Nó bắt đầu với giống loại hay với cá thể? Trong trích đoạn dưới đây, phủ nhận cả hai quan điểm triết học...
Trong trích đoạn dưới đây, Albert Burloud giải thích rằng, trái với một cách lạm dụng thuật từ này gợi ý, «cái tổng quát» không có nghĩa là cái mơ hồ mà là cái xác định.
Con của Sophroniscos (thợ chạm) với Phainaretē (bà đỡ), Sōkratēs chào đời khoảng năm 470 và bị hành quyết năm 399. Sōkratēs là một hiện thực huyền ảo. Vụ án và cái chết của Ông đã khởi động sau đó cả một phong trào viết về Sōkratēs...
Một câu hỏi từ xưa không ngừng ám ảnh các nhà Platōn học và Sōkratēs học. Vì tư tưởng của Sōkratēs (khoảng 469-399) chỉ được biết gián tiếp và chủ yếu qua Platōn (khoảng 429-347), trong khi Platōn còn là một triết gia vĩ đại mà tư tưởng cũng đã tiến hóa rất phức tạp, liệu nhân vật Sōkratēs trong các bản đối thoại của ông có phát biểu trung thực những ý tưởng của Sōkratēs lịch sử chăng, và nếu có, trung thực đến mức nào...
Trong số đó, mặc dù chỉ chiếm một không gian nhỏ bé, Athēnai[2]* ở vùng Attikē*, với các khu Agora* và Akropolis* lịch sử (xem thêm ở phần Phụ Lục khi có thể tham khảo)...
Vì hạnh phúc là sự an tâm, vì sự yên tâm lâu bền phụ thuộc vào lòng tin mà chúng ta có được trước tương lai, và vì lòng tin ấy dựa trên nền tảng của thứ khoa học mà ta phải có về bản chất của Thượng Đế...
SŌKRATĒS : Bây giờ ta thử đi xa hơn một bước nữa, xem bạn có nghĩ như tôi không nhé. Chúng ta nói là có sự ngang bằng – không phải là sự bằng nhau giữa khúc gỗ này với khúc gỗ kia, hòn đá này với hòn đá nọ...
Trung tâm sớm nhất của nền văn minh Hy Lạp thực sự nằm ở các thuộc địa (Milētos, Ephesos) trên bờ biển phía tây của Tiểu Á, nơi nó đã phát triển nhanh hơn tại quê hương chính địa...
Antoine de Lavoisier thường được kể là nhà hóa học, thậm chí còn được ghi nhận như người đã có công mở đầu kỷ nguyên hóa học hiện đại...
«SỰ SỐNG KHÔNG TỒN TẠI» (E. KAHANE, 1962)
Thể loại: Bài dịch
Dưới khẳng định nghịch lý đầy khiêu khích – Sự Sống không tồn tại! – này, Ernest Kahane thật ra chỉ đặt dấu nhấn trên điểm gặp nhau của hai luận thuyết: quy giản luận* trong sinh học...
Trích dịch từ Charmidēs[1] [156d-157c], theo bản tiếng Anh của Benjamin Jowett, có đối chiếu với bản tiếng Pháp của Victor Cousin. Mặt khác, để bạn đọc dễ theo dõi trích đoạn, chúng tôi đã trình bày bản dịch dưới dạng đối thoại trực tiếp chứ không phải gián tiếp như trong nguyên bản.
[…] Nhưng theo ý kiến của chúng tôi, căn bệnh này* không linh thiêng gì hơn bất kỳ một căn bệnh nào khác; nó có bản chất, cái vốn là nguyên nhân làm phát sinh các bệnh riêng biệt...
«PHẢI CẤM CHỈ MỌI GIẢ THUYẾT TRONG VẬT LÝ HỌC» (P. VAN MUSSCHENBROEK, 1729)
Thể loại: Bài dịch
Bởi phản ứng chống lại các giả định tôn giáo, các xây dựng toán học nhằm «cứu giữ những hiện tượng»[2] thiên văn, ý đồ tìm kiếm giải đáp cho các bí ẩn của tự nhiên nơi sự huyền bí của những con số (như ở các chủ thuyết của Pythagoras và Platon-mới)…
«HYPOTHESES NON FINGO» (I. NEWTON, 1713)
Thể loại: Bài dịch
Dưới đây là văn bản chính — phần Newton đã thêm vào ấn bản năm 1713[1] của quyển Nguyên Lý Toán Học Của Triết Học Tự Nhiên (Philosophiæ naturalis principia mathematica, xuất bản năm 1687), gọi là Chú Giải Tổng Quát (General Scholium)...
Trong việc tìm kiếm một tiêu chuẩn để phân biệt khoa học với khoa học giả, người ta thường viện dẫn phương pháp thực nghiệm như một bảo lãnh của chân lý khoa học. Như vậy, chỉ cần một lý thuyết được kinh nghiệm nhận thực là đủ để nó có thể tự xem như đã được thiết lập một cách khoa học chăng?...
Thuật từ «quy giản luận» (reductionism) được sử dụng rộng rãi cho bất kỳ đòi hỏi nào khẳng định rằng một số lĩnh vực hiện tượng có thể được đồng hóa hoàn toàn với một số lĩnh vực hiện tượng khác, rõ ràng là khác biệt...
«Tôi tư duy, vậy tôi hiện hữu» thuộc vào loại phát biểu triết học mà ngay cả những người đứng ngoài cửa Triết cũng đều biết, và vẫn còn là đầu đề tranh cãi sau bao phân tích và tìm hiểu, của bao tác giả...
Từ năm 428 đến năm 348 tCn, sống tại Athenai một triết gia mà toàn bộ lối tư duy đã thắp sáng thế giới văn minh suốt hai nghìn năm. Đấy là Platōn, bạn và là học trò của Sōkratēs xấu số, đồng thời là người sáng lập Akademia...
Đây là một loạt những lướt nhìn thoáng qua, về một số lý thuyết khoa học mà con người từng có, về vấn đề hình thành của thế giới này. Thiên nhiên rất phong phú về đủ thứ vật liệu khác nhau, từ chất lỏng và tinh thể đến chồi xanh và mô sống...
Ai cũng tưởng mình hiểu ý nghĩa của «vấn đề nguồn gốc sự sống». Nhưng sự khó khăn trong việc tìm hiểu nguồn gốc này không chỉ đến từ sự kiện là hiện tượng đã mất hút «trong đêm đen của thời gian», như ta quen nói....
Để khai trương năm 2000 một cách trang trọng [...], tôi được yêu cầu trả lời câu hỏi: sự sống là gì? Với tôi, câu hỏi này còn có vẻ thích hợp hơn khi nó không có giải đáp. Từ khi có con người – con người suy nghĩ...
Trái với những gì người ta thường tưởng tượng, sinh học không phải là một khoa học thống nhất. Sự không đồng nhất về đối tượng, sự khác biệt về quan tâm, sự đa dạng về kỹ thuật, tất cả những điều này đã góp phần nhân lên các môn học...
Về mặt lịch sử, toán học và lô-gic học là hai ngành hoàn toàn khác biệt. Toán học được kết nối với khoa học, lô-gic học với tiếng Hy Lạp. Nhưng cả hai đều đã phát triển trong thời hiện đại: lô-gic học trở thành toán học hơn, và toán học trở thành lô-gic học hơn...
Trong số các «quan hệ» lô-gic khác nhau, quan hệ toán học giữ một vị trí nổi bật, và chúng ta phải quan niệm tương quan giữa Lô-gic học với Toán học như thế nào là cả một vấn đề. Với sự xuất hiện của Toán lô-gic (Logistique) Lô-gic học còn tiến gần Toán học hơn nữa...
Khi chúng ta xem xét một đối tượng, tự thân và trong bản chất của nó, chứ không tập trung trí tuệ trên cái gì nó có thể là đại diện, thì ý tưởng mà chúng ta có về nó là ý tưởng về một sự vật, như ý tưởng về Trái Đất, Mặt Trời...
Được viết từ năm 1916, và có vẻ như chỉ chủ yếu liên quan tới nền giáo dục ở nước Anh, tiểu luận dưới đây của Bertrand Russell thực ra vẫn có một giá trị phổ quát cho việc giáo dục – nhất là giáo dục trẻ em – bởi những vấn đề được tác giả nêu lên, mỗi ngày một trầm trọng hơn ở nhiều quốc gia trên thế giới...
Dạy con người một chuyên môn là không đủ. Bởi qua đó, hắn có thể trở thành một loại máy hữu dụng, nhưng không phải là một nhân cách được phát triển hài hòa...
Sử gia chân chính không thuộc về một thời đại nào, cũng không thuộc về một quốc gia nào; mặc dù yêu quý đất nước của mình, ông không bao giờ xu nịnh nó trong bất kỳ việc gì...
Mục đích cơ bản, lộ liễu nhất của các khoa học nhân văn luôn luôn là đạt tới một tri thức có hệ thống và lý tính về con người. Mục đích này hiếm khi là đề tài tranh cãi nội bộ giữa các trường phái tư tưởng bên trong các môn học khác nhau...