Tin Tức

Viện IRED cùng các học giả, nhà nghiên cứu và chuyên gia giáo dục tổ chức sự kiện học thuật như tọa đàm, hội thảo, hội nghị trong nước và quốc tế thuộc lĩnh vực văn hóa, giáo dục và khoa học xã hội.

Đổi mới toàn diện giáo dục đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực

Tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục xác định con người, nhân tố con người là một trong năm quan điểm phát triển. Ảnh minh họa

Trong xu thế phát triển của khoa học, công nghệ hiện nay, thì vai trò của nguồn nhân lực càng quan trọng. Trong ngành vi điện tử, trong tổng giá trị của sản phẩm, nguyên liệu chỉ chiếm 1-3%, lao động cơ bắp chiếm 12%, còn lại 85% là giá trị của tri thức, bí quyết công nghệ và chế thử. Điều đó nói lên vai trò ngày càng tăng của nguồn nhân lực.

1. Xây dựng, phát triển con người, nguồn nhân lực là quan điểm, chính sách nhất quán của Đảng, Nhà nước ta. Bởi, nguồn nhân lực là nguồn lực nội tại, cơ bản, có khả năng tái sinh, tự sản sinh và đổi mới phát triển nếu biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý. Do đó, nguồn nhân lực là nguồn lực của mọi nguồn lực, là tài nguyên của mọi tài nguyên; vừa là chủ thể, vừa là khách thể, vừa là động lực, vừa là mục tiêu giữ vị trí trung tâm trong các nguồn lực giữ vai trò quyết định thành công của sự nghiệp Đổi mới.

Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam hiện nay bên cạnh những ưu thế về lực lượng lao động dồi dào, con người cần cù, thông minh, sáng tạo… vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập về cơ cấu, trình độ chuyên môn, kỹ năng lao động, thể lực… làm cho năng suất lao động xã hội nước ta thấp hơn các nước trong khu vực từ 2 đến 15 lần. Sức cạnh tranh của lao động Việt Nam thấp. Tại Nhà máy Xi măng Nghi Sơn (Thanh Hóa), tổng quỹ lương của 20 người Nhật làm việc ở đây bằng tổng quỹ lương của gần 2.000 người Việt Nam trong nhà máy. Trong các ngành dịch vụ như Ngân hàng, Y tế,... có tới 40% người có thu nhập từ 14.000USD/năm trở lên thuộc về người nước ngoài.

Trong xu thế phát triển của khoa học, công nghệ hiện nay, thì vai trò của nguồn nhân lực càng quan trọng. Trong ngành vi điện tử, trong tổng giá trị của sản phẩm, nguyên liệu chỉ chiếm 1-3%, lao động cơ bắp chiếm 12%, còn lại 85% là giá trị của tri thức, bí quyết công nghệ và chế thử. Điều đó nói lên vai trò ngày càng tăng của nguồn nhân lực.
Tại Đại hội XI, Đảng ta tiếp tục xác định con người, nhân tố con người là một trong năm quan điểm phát triển: “...phát huy tối đa nhân tố con người; coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển”; là một trong ba khâu đột phá chiến lược: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược…”; đồng thời cũng là 1 trong 12 định hướng phát triển kinh tế - xã hội: “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục đào tạo”.

 

2. Xây dựng, phát triển nguồn nhân lực là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của tất cả các cấp, các ngành, của toàn xã hội; diễn ra trên mọi lĩnh vực kinh tế - xã hội; thông qua thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, trong đó, giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu nhất.

Thực trạng của giáo dục và đào tạo còn không ít hạn chế, bất cập. “Chất lượng giáo dục và đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, nhất là đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao vẫn còn hạn chế; chưa chuyển mạnh sang đào tạo theo nhu cầu của xã hội. Chưa giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng số lượng, quy mô với nâng cao chất lượng, giữa dạy chữ và dạy người. Chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học lạc hậu, đổi mới chậm; cơ cấu giáo dục không hợp lý giữa các lĩnh vực, ngành nghề đào tạo; chất lượng giáo dục toàn diện giảm sút, chưa đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo còn bất cập. Xu hướng thương mại hóa và sa sút đạo đức trong giáo dục khắc phục còn chậm, hiệu quả thấp, đang trở thành nỗi bức xúc của xã hội”. Nghị quyết Đại hội XI tiếp tục xác định: “Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư cho phát triển”.

Để giáo dục và đào tạo góp phần quan trọng phát triển nguồn nhân lực, Đại hội XI đề ra quan điểm: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa và hội nhập quốc tế, trong đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục và đào tạo, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục... Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học”.

Triển khai quan điểm chỉ đạo đó, cần thực hiện tốt mấy vấn đề cơ bản sau đây:

Tiếp tục nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của giáo dục và đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực. Nếu nguồn nhân lực quyết định sự phát triển của quốc gia, thì giáo dục và đào tạo là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng con người, là con đường cơ bản để phát triển nguồn nhân lực. Mọi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội sẽ không thành công nếu không thực hiện tốt chiến lược giáo dục và đào tạo. Do đó, phải làm cho các cấp, các ngành, mọi nhà, mọi người thấu triệt quan điểm “giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”, “đầu tư cho giáo dục, đào tạo là đầu tư cho phát triển, đầu tư cho tương lai”; giáo dục, đào tạo phải đi trước một bước... và triển khai bằng các kế hoạch cụ thể để biến tư tưởng đó thành hành động sinh động trong thực tế cuộc sống.

Đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục và đào tạo góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực.

- Xác định, quán triệt sâu sắc mục tiêu của giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực là phải hướng đến thực hiện mục tiêu phát triển nguồn nhân lực Việt Nam thời kỳ 2011-2020. Đó là phát triển nguồn nhân lực toàn diện: Cả thể lực, trí tuệ, ý chí, năng lực và đạo đức; có năng lực tự học, tự đào tạo, năng động, chủ động, tự lực, sáng tạo, có tri thức và kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng thích ứng nhanh, chủ động trong môi trường sống và làm việc. Có cơ cấu hợp lý, đồng bộ cả nhân lực quản lý hành chính nhà nước, đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, đặc biệt là nhóm chuyên gia đầu ngành, đội ngũ doanh nhân, chuyên gia quản trị doanh nghiệp chuyên nghiệp; có cơ cấu trình độ, ngành nghề và vùng miền hợp lý. Phấn đấu đưa nhân lực Việt Nam trở thành nền tảng và lợi thế quan trọng nhất để phát triển bền vững đất nước, hội nhập quốc tế, nâng trình độ, năng lực cạnh tranh của nhân lực nước ta lên mức tương đương các nước tiên tiến trong khu vực, trong đó một số mặt tiếp cận trình độ các nước phát triển trên thế giới. Giáo dục, đào tạo phải thực hiện mục tiêu: Học để làm người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập; học để có nghề, có việc làm hiệu quả; học để làm cho mình và người khác hạnh phúc; học để góp phần phát triển đất nước và nhân loại. Như vậy, mục tiêu và cách thức sử dụng nguồn lao động của xã hội quyết định mục tiêu và cách thức đào tạo. Nguồn nhân lực xã hội cần gì thì giáo dục đào tạo phải hướng đến đáp ứng mục tiêu đó. Khắc phục việc đào tạo không phù hợp với nhu cầu xã hội, cơ cấu không hợp lý, “thừa thầy, thiếu thợ”...

- Đổi mới mạnh mẽ nội dung và phương pháp giáo dục, đào tạo. Nội dung giáo dục phải toàn diện cả dạy chữ, dạy nghề, dạy người. Cần quan tâm hơn đến giáo dục phẩm chất đạo đức làm người, giáo dục lòng yêu nước và ý thức làm chủ của người lao động, tinh thần trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp; tinh thần đồng đội, hợp tác trong công việc, chí tiến thủ và độc lập sáng tạo và tính trung thực của người lao động. Do đó, phải chuẩn hóa chương trình và giáo trình đào tạo đảm bảo phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xã hội. Tăng việc rèn luyện phương pháp tư duy, năng lực độc lập sáng tạo, khả năng giải quyết vấn đề thực tiễn và khả năng tự đào tạo, bồi dưỡng và tự hoàn thiện của mỗi cá nhân người lao động để thích nghi với sự biến đổi nhanh chóng của hiện thực xã hội. Đưa công nghệ thông tin mới vào trong mọi bậc học, khắc phục tệ nạn nhồi nhét kiến thức, giáo điều, xa rời thực tiễn.

- Đổi mới công tác quản lý giáo dục một cách cơ bản và toàn diện cả về tư duy lẫn phương thức quản lý theo hướng nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục và đào tạo. Tập trung vào quản lý nội dung và chất lượng giáo dục và đào tạo, tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra đối với các cơ sở giáo dục và đào tạo. Nhà nước cần giao quyền tự chủ hơn nữa cho các trường đại học và cao đẳng để các trường có điều kiện chủ động cao hơn, năng động hơn. Tăng sự liên thông giữa nhà nước - cơ sở đào tạo, giáo dục - đơn vị sử dụng nguồn nhân lực cả trong đóng góp nguồn lực, xây dựng chương trình, nội dung, hợp lực đào tạo và sử dụng hiệu quả sản phẩm giáo dục đào tạo.

- Mở rộng quy mô đi đôi với nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo. Hoàn thiện mạng lưới giáo dục trên toàn quốc, chú trọng đầu tư phát triển vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tăng quy mô giáo dục trung học phổ thông và phát triển mạnh mẽ dạy nghề, nhất là các tỉnh đồng bằng và miền núi. Tăng nhanh tốc độ đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật, công nhân có tay nghề cao, đội ngũ những nhà quản lý, các chủ doanh nghiệp... Xây dựng được hệ thống các cơ sở đào tạo nhân lực tiên tiến, hiện đại, đa dạng, cơ cấu ngành nghề đồng bộ, đa cấp, năng động, liên thông giữa các cấp và các ngành đào tạo trong nước và quốc tế, phân bố rộng khắp trên cả nước. Xã hội hóa giáo dục, đào tạo, huy động toàn xã hội làm giáo dục cả trong huy động nguồn lực, trong xây dựng chương trình, nội dung, sử dụng sản phẩm của giáo dục đào tạo đáp ứng nhu cầu xây dựng được xã hội học tập, đảm bảo cho tất cả các công dân Việt Nam có cơ hội bình đẳng trong học tập, đào tạo. Tăng cường hợp tác quốc tế trong giáo dục đào tạo.

- Xây dựng, chuẩn hóa đội ngũ giảng viên cả về số lượng và chất lượng, có trách nhiệm và lương tâm nghề nghiệp, toàn tâm toàn ý với sự nghiệp giáo dục… Đòi hỏi Đảng, Nhà nước, xã hội quan tâm, nâng cao mức sống và điều kiện làm việc của giáo viên, trả lương để họ đủ sống và làm việc tận tâm; xác lập tôn vinh vị trí cao quý của người thầy; có chính sách thu hút được nhiều người giỏi vào ngành giáo dục, đào tạo; nâng cao chất lượng đào tạo và bố trí, sử dụng hợp lý, hiệu quả đội ngũ giáo viên; tăng cường giao lưu và hợp tác trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo với các nước có nền giáo dục phát triển.

- Đầu tư hợp lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực cho giáo dục và đào tạo, cả nhân lực, vật lực và tài lực, để đưa ngành giáo dục đào tạo khỏi tình trạng chậm phát triển so với khu vực và thế giới, thực hiện đúng tinh thần “giáo dục, đào tạo là quốc sách hàng đầu” góp phần phấn đấu đưa tỷ trọng lao động đã qua đào tạo từ 35 đến 40% như hiện nay đến trên 70%, đào tạo nghề chiếm 55% trong tổng lao động xã hội vào năm 2020. Đầu tư thỏa đáng cơ sở vật chất phục vụ công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu ở các trường cao đẳng và đại học. Tiếp tục xã hội hóa các nguồn lực đầu tư cho giáo dục đào tạo.

Sự thành công của công cuộc đổi mới vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh phụ thuộc có tính quyết định vào việc phát triển nguồn nhân lực mà trong đó phương tiện chủ yếu quyết định nhất là thực hiện tốt quan điểm đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục đào tạo như Đại hội XI đề ra./.

Đại tá, TS Lê Đại Nghĩa/QĐND

Nguồn: Tuyengiao.vn, 18/05/2011