HOÁ CÔNG VÀ KHŌRA (L. BRISSON & J.-F. PRADEAU, 2007)

LM : 15-8-2024
Từ khoá : Vật chất (Khái niệm) – Không gian (Khái niệm) – Hoá Công
Khōra – Vũ trụ (Huyền thoại) – Hy Lạp, tk IV tCn

C2

HOÁ CÔNG VÀ KHŌRA
(2007)

Tác giả : Luc Brisson & Jean-François Pradeau
Người dịch : Nguyễn Văn Khoa

*

Trong lịch sử triết học, Platōn được biết tới như người đã đề xuất giả thuyết về sự hiện hữu của loại hiện thực khả tri, vừa khác biệt với, vừa liên quan tới, loại hiện thực cảm giác. Ông đưa ra giả thuyết ấy để giải thích vì sao thế giới này, nơi vạn vật liên tục thay đổi, vẫn luôn luôn có đủ tính lâu dài và sự ổn định để con người có thể biết tới nó, nói về nó, và hành động trong đó, cả ở mức độ cá nhân (lĩnh vực đạo đức) lẫn trong khuôn khổ của thành quốc (lĩnh vực chính trị). Như vậy, chính vì tin chắc rằng tính ổn định và sự vĩnh cửu này không thể nào là đặc trưng của giác quan, nên Platōn mới đưa ra giả thuyết rằng phải có một hiện thực bất biến đáp ứng các yêu cầu ấy, đồng thời giải thích vì sao giữa những sự vật không ngừng biến đổi, lại có một cái gì đó không bao giờ thay đổi.

Giả thuyết về sự hiện hữu của các hình thức khả tri trong vai trò mô hình đối với những hiện thực cảm tính vốn chỉ là hình ảnh của chúng, dẫn đến việc đặt câu hỏi về sự giống nhau. Tự thân sự giống nhau bao hàm sự khác biệt, vì nó phải được định nghĩa như một sự đồng nhất bị giới hạn vào một số khía cạnh nhất định. Do đó, nếu những sự vật cảm tính chỉ là hình ảnh của các hình thức khả tri, thì những sự vật trước phải thể hiện trong quan hệ với các hình thức sau vừa một sự giống nhau nào đấy, vừa đồng thời một sự khác biệt nhất định, nếu không, chúng sẽ lẫn lộn vào nhau.

Trong Timaeus, để giải quyết các yêu cầu mâu thuẫn này, Platōn buộc phải đặt ra hai thực thể sau: một Hoá Công[1], kẻ tạo dựng vũ trụ, hay chính xác hơn, đã đưa vũ trụ từ hỗn loạn sang trật tự; và khōra, thứ vật liệu (matériau)[2] trên đó Ngài thao tác. Hoá Công đảm bảo sự giống nhau, trong khi khōra giải thích sự khác biệt. Theo quan điểm này, Hoá Công và khōra có thể được xem là hư cấu, bởi vì cả hai đều không thể, trong các danh nghĩa ấy, thuộc về hiện thực (hình thức khả tri hoặc sự vật hữu hình), mặc dù cả hai vẫn cho phép ta giải thích những đặc trưng cơ bản của chúng; ở đây, chúng ta thấy mình giống như trong một tình huống mang tính hư cấu pháp lý, khi chúng ta giả định một sự kiện hoặc tình huống không có thật, nhằm suy ra những hệ quả về luật pháp. Như vậy, Hoá Công và khōra là những phát minh chỉ cho mục đích đặc biệt ấy (ad hoc), những thủ thuật cần thiết để phân tích chặt chẽ quan hệ giữa hình ảnh và mô hình mà những sự vật hữu hình duy trì đối với các hình thức khả tri. Và chính cái quy chế là hư cấu này đã khiến cho chúng ta chỉ có thể nói về Hoá Công và khōra một cách tượng trưng, ​​với sự trợ giúp của những hình ảnh và ẩn dụ mà vai trò là để suy nghĩ chứ không chỉ duy nhất là văn học.

Hoá Công được trình bày như một vị thần tách biệt khỏi thế giới, đây là điều chưa từng thấy ở Hy Lạp cổ đại đương thời. Và trên hết, hành động của Hoá Công là thứ thao tác của một người lao động: khi tạo dựng thế giới, Ngài thực hiện những cử chỉ của nhà luyện kim, của người thợ rèn, và thậm chí của một họa sĩ; còn khi tạo ra con người, Ngài làm công việc của người thợ gốm, của kẻ nặn tượng bằng sáp, của người đan lát. Tất cả những hình ảnh, những ẩn dụ so sánh sự can thiệp của Hoá Công với công việc của một người thợ thủ công ấy bao hàm một số nét nhất định. (a) Hoạt động này có khởi đầu và kết thúc. (b) Nội dung của nó là tái tạo một mô hình bằng một vật liệu* do đó, nó không thể được đồng hóa với một sáng tạo từ hư không, mà tương đương với việc sắp xếp một vật liệu nhằm tạo ra một bản sao càng giống với mô hình nhất càng tốt. Và (c) nó tuân theo một ý định. Sự sử dụng phép ẩn dụ thủ công trong vũ trụ học làm nảy sinh mâu thuẫn giữa thời gian của câu chuyện, và tính phi thời gian của mô hình, nghĩa là sự hư cấu đặt ra một vấn đề lý thuyết thực sự.

Với thứ vật liệu* mà Hoá Công làm việc, giới hạn cực độ của vũ trụ học trong Timaeus đạt tới điểm ở đấy mọi thứ đều có xu hướng trở thành nghịch lý. Để hiểu Platōn muốn nói gì về thực thể kỳ lạ này, chúng ta phải tự hỏi mình có thể nói gì về nó, nhận thức được nó và biết bản chất của nó là gì, bằng phương tiện nào. Như chúng ta vừa thấy, sự cần thiết đặt ra giả thuyết về khōra xuất phát từ nhu cầu phân tích ý niệm về sự giống nhau. Nếu những sự vật có thể cảm nhận được không thể giống hệt những hình thức khả tri, thì phải có một cái gì đó trong chúng đánh dấu sự khác biệt. Cái gì đó này là khōra, cái không thể được nhận thức bằng trí tuệ theo định nghĩa, bởi nó không can dự gì vào cái khả tri, cũng không thể bằng các giác quan, vì vai trò của nó chỉ giới hạn vào việc ngăn chặn sự đồng nhất hoá cái có thể cảm nhận được với cái khả tri. Đây là lý do khiến Platōn lưu ý rằng đòi hỏi về khōra chỉ được rút ra vào cuối một «lý luận lai tạp» (logismō nothō). Tuy nhiên, vì khōra không thể được nắm bắt bằng trí tuệ hoặc giác quan, nên chúng ta không thể nói gì về nó, mặc dù vẫn phải mô tả bản chất của khōra nếu muốn xác định vai trò của nó. Để đạt kết quả này, Platōn dùng một loạt so sánh và ẩn dụ kép gắn liền với hai đặc điểm của khōra : một mặt, khōra là cái bởi nó những vật hữu hình được làm ra, hay nói cách khác cái «vật chất» của chúng theo thuật từ của Aristotes[3], và mặt khác là cái tại đấy chúng xuất hiện và cái từ đấy chúng biến mất là cái nơi chốn mà chúng chiếm giữ[4].

Khía cạnh cấu thành của khōra được mô tả bằng phép ẩn dụ liên quan trước tiên đến sự sinh nở, sau đó tới nghề thủ công. Khōra được coi là người mẹ và bà nuôi của những sự vật cảm quan đang biến hoá; và các động từ mô tả việc tạo ra những hình thức xác định nơi chúng đều thuộc loại liên quan tới những thao tác trên vàng, sáp và thậm chí cả nước hoa. Hơn nữa, khía cạnh không gian được mô tả bằng các thuật từ chỉ nơi chốn và vị trí; khōra trước hết là nơi chứa đựng những vật hữu hình trong một thời gian. Thông qua thứ ngôn ngữ gián tiếp này, chúng ta hiểu rằng những vật có thể cảm nhận khác với những vật khả tri, bởi vì chúng trong không gian tách biệt với nhau, trong chừng mức chúng cho thấy có một lực cản khiến hai vật không thể cùng nằm trên một vị trí. Một lần nữa, để làm rõ vai trò và bản chất của một yếu tố giải thích thiết yếu trong hệ thống của ông, Platōn phải dùng đến những hình ảnh và ẩn dụ. 

Trong Timaeus, khōra không bao giờ được mô tả trong trạng thái tinh khiết. Khi Hoá Công bắt đầu đưa sự đo lường và các tỷ lệ vào vũ trụ, nó đã cho thấy dấu vết của bốn nguyên tố (Timaeus, 52d-53c), được khuấy động bởi một chuyển động cơ học khôngtrật tự và kích thước. Platōn gọi cái nguyên lý đối kháng này là anagkē, một thuật từ thường được dịch là «sự thiết yếu», nhưng chính xác hơn, nó chỉ toàn thể những h quả không thể tránh trong thế giới cảm tính vốn áp đặt những giới hạn nghiêm ngặt lên mọi ý định lý tính.

Bằng cách thừa nhận thứ lực cản dai dẳng của «sự thiết yếu» trong vũ trụ, một sự thiết yếu mà Hoá Công trước, rồi linh hồn của thế giới[5] sau, phải thoả hiệp, Platōn thừa nhận rằng thứ trật tự do mô hình vũ trụ học của ông giả định, bao gồm hai hư cấu là Hoá Công và khōra mà người ta chỉ có thể nói tới theo nghĩa bóng này, sẽ luôn luôn là thiếu sót và tạm thời. Tuy nhiên, cũng thông qua chính những hư cấu là Hoá Công và khōra ấy toàn bộ vũ trụ quan của Platōn sẽ được triển khai trong Timaeus.

Luc Brisson & Jean-François Pradeau,
Từ Điển Thuật Ngữ Platōn,
(Dictionnaire Platōn,
Paris, Ellipses, 2007, tr. 39-42


[1] Dēmiourgos, do dēmios (phổ biến, phổ thông) và ergon (công việc). Do đó, nghĩa đen và nghĩa đầu tiên của dēmiourgos là người thợ, nhà thủ công, kẻ chế tác. Theo nghĩa Tác nhân, Platōn dùng nó để chỉ Hoá Công, vị Thần đã thiết lập trật tự thế giới từ một vật liệu nguyên thuỷ là khōra chứ không phải là một Thượng Đế đã tạo lập vũ trụ từ hư vô; mặt khác, Dēmiourgos chỉ giống với các Theoi (Thần linh) Hy Lạp khác theo nghĩa truyền thống là bất tử. Như vậy, Theos được Platōn dùng theo một nghĩa rất rộng: nó có thể quy chiếu về: a) Dēmiourgos, các Thần trên Olympos, thậm chí các quỷ thần nhỏ hơn; b) các Hình Thức khả tri (cái hoàn hảo không thay đổi); c) nguyên lý Thiện Hảo (the Good = le Bien, nguồn gốc và  hiện thân của trật tự và hiểu biết).  

[2] Ở đây, Brisson và Pradeau dùng từ matériau (vật liệu). Nhưng khōra không phải là vật liệu xây dựng như cát, đá, hay gạch. Các dịch giả Jowett và Cousin đều dùng các từ mother = mère, nurse = nourrice, và receptacle = réceptacle (người mẹ, vú nuôi, cái chứa đựng), nói rõ bản chất bất định của ý niệm. Một khái niệm khoa học không thể nào là mơ hồ, bất định. Xem trên trang mục Vật Lý & Hoá Học khi có thể tham khảo: Platōn, Vật Chất & Không Gian.

[3] Nhưng nếu so sánh cho thật chính xác, thì như quy chiếu về vật chất, khōra của Platōn với hylē của Aristotes rất khác nhau. Khōra: cái chứa đựng không hình thể, không thấy được, không bao giờ ổn định; chỉ có thể nhận thức được bằng thứ lập luận lai tạp; tiếp nhận những bản sao từ các hình thức khiến thế giới biến dịch thành có thể; thực thể siêu hình thứ ba. Hylē: Tiềm thể thụ động nhưng ổn định bên dưới chất liệu vật chất; có thể nhận thức được thông qua phân tích; kết hợp với hình thức để trở thành hiện thể; một phần của cấu trúc kép (hình thức + vật chất) của chất thể.

[4] Khōra còn không thể là một khái niệm khoa học theo nghĩa thứ hai. Một khái niệm khoa học không thể chỉ hai thực thể cùng một lúc. Thật ra, khōra không phải cùng một lúc vừa là vật chất, vừa là không gian, hai thực thể khác nhau; là một thứ lai tạo (hybride) thách thức loại phạm trù bình thường. Ở Platōn, chỉ có khōra,khōracái chứa đựng. Khōra không chính xác là vật chất cũng không chính xác là không gian, nhưng là một thực thể thứ ba đóng vai trò của cả vật chất lẫn không gian mà không thể bị quy giản vào cái này hoặc cái kia. Như cái chứa đựng (hypodochē), nó cho phép các Hình thức khả tri xuất hiện trong thế giới cảm quan, do đó, nó giống như vật chất. Như nơi chốn (topos), nó cho phép các cơ thể có quảng tính (extension), có thể ở một chỗ nào đấy, do đó, nó giống như không gian. Nó là thứ điều kiện siêu hình, cái ý niệm siêu hình, khiến cho biến dịch (sự thay đổi, những vật thể vật lý) thành có thể trong vũ trụ học của Platōn. Xem trên trang mục Vật Lý & Hoá Học khi có thể tham khảo: Platōn, Vật Chất & Không Gian.

[5] Theo Platōn, thế giới phải được xem như tổng thể có trật tự của mọi sự vật hữu hình, như một sinh vật (zōon)cơ thể và linh hồn. Cơ thể của thế giới biểu hiện hình dạng của một quả cầu khổng lồ bao gồm trongtoàn bộ những thực thể hữu hình được cấu thành từ bốn nguyên tốlửa, khí, nước và đất. Linh hồn của thế giới được trộn từ ba yếu tố Hiện hữu-Giống nhau-Khác biệt, theo tỷ lệ toán học, thành một tổng thể hài hoà; nó là chiếc cầu nối giữa thế giới vĩnh cửu của các Hình thức và thế giới biến đổi không ngứng của vạn vật; nó mang lại cho vũ trụ lý tính, trật tự, và sự sống; nó là nguyên lý tự phát của mọi chuyển động (chuyển động hàng ngày của toàn thể thế giới từ Đông sang Tây, và chuyển động của toàn bộ bảy «hành tinh»). Linh hồn con người được làm từ cùng một chất liệu và có cùng cấu trúc lý tính với linh hồn thế giới, nhờ vậy mà nó có thể nắm bắt được mọi chân lý vĩnh hằng.

CHUYÊN TRANG CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU Nguyễn Văn Khoa