|
LM : 15-8-2025 |
C2 |
LỊCH SỬ KHÔNG CÓ CỨU CÁNH
(1854)
Tác giả: Leopold von Ranke*
Bản tiếng Anh: Moltke S. Gram
Bản tiếng Pháp: Paul Quillet
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa
*
Trích đoạn dưới đây được rút ra từ loạt bài thuyết trình của Leopold von Ranke trước Maximilian II, Vua xứ Bayern[1], tại dinh thự mùa hè của Ngài ở Berchtesgaden, mùa thu năm 1854. Vốn quan tâm sâu sắc tới khoa học nói chung và sử học nói riêng, nhà vua là học trò và là kẻ rất ngưỡng mộ Ranke. Trích đoạn (từ bài thuyết trình đầu tiên ngày 25-09-1854) này bao gồm cả một đoạn trao đổi tại chỗ khá dài giữa nhà vua với sử gia.
*
1 - LỜI NÓI ĐẦU CỦA RANKE
Để sử dụng hiệu quả các bài thuyết trình này, trước hết ta cần phải nhất trí trên hai điểm: 1) thứ nhất, thời điểm chúng ta phải chấp nhận để bắt đầu ; 2) thứ hai, những khái niệm chính.
Đối với điểm xuất phát, ta sẽ tránh để bản thân bị tư tưởng lôi ra khỏi mục tiêu, về tận những thời điểm quá xa xôi và những tình huống thực sự quá xa lạ, mặc dù chắc chắn vẫn còn ảnh hưởng tới hiện tại của chúng ta nhưng chỉ một cách rất gián tiếp. Để không bị lạc vào cõi của sử tính thuần túy, chúng ta sẽ bắt đầu từ thời kỳ La Mã, nơi đã có thể tìm thấy toàn bộ những yếu tố khác biệt đa dạng.
Sau đó, ta còn cần phải thống nhất: 1) trên khái niệm tiến bộ, nói một cách tổng quát, 2) và về những gì nên hiểu qua cụm từ «những ý tưởng chỉ đạo» trong lịch sử.
2 - PHẢI DIỄN GIẢI KHÁI NIỆM «TIẾN BỘ» TRONG LỊCH SỬ NHƯ THẾ NÀO?
Nếu cùng với nhiều triết gia khác, ta muốn giả định rằng toàn thể nhân loại đã phát triển, từ một trạng thái sơ khai vốn có nào đó tới một mục đích tích cực, chúng ta có thể hình dung sự tiến hoá này theo hai cách. Hoặc là có một ý chí thống lĩnh phổ quát, và nó đã thúc đẩy sự phát triển của loài người từ một điểm này sang một điểm khác; hoặc là có một cái gì đó như dấu vết của bản chất tinh thần tự nhiên nơi nhân loại, và nó nhất thiết thúc đẩy mọi sự việc tới một mục đích xác định. Tôi sẽ xem các quan điểm này là vừa không thể bảo vệ được về mặt triết học, vừa không thể chứng minh được về mặt lịch sử.
Về mặt triết học, ta không thể xem các quan điểm này là có thể chấp nhận được, bởi vì trong trường hợp trước, nó xóa bỏ hoàn toàn tự do của con người, và xem người đời như những công cụ không có chút ý chí riêng nào; còn trong trường hợp sau, nhân loại sẽ phải là hoặc Thượng Đế hoặc không là gì hết.
Về mặt lịch sử, các quan điểm này cũng không thể chứng minh được. Điểm thứ nhất: bộ phận lớn nhất của nhân loại vẫn còn ở trong trạng thái nguyên thủy, tại chính điểm xuất phát. Lúc đó, chúng ta phải tự đặt câu hỏi: tiến bộ là gì? Phải phát hiện ra sự tiến bộ của nhân loại ở đâu? Có những yếu tố của tuyến phát triển lịch sử chính yếu được cố định trong các dân tộc La Mã và Đức; ở đây thực sự đã có một lực lượng tinh thần tự phát triển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác. Đây là một chuyển động đã bắt nguồn từ thời tiền sử, và đã tiếp tục với một sự ổn định nào đấy, một nguồn lực của tinh thần con người qua suốt tiến trình lịch sử mà ta không thể không biết. Tuy nhiên, trong toàn thể nhân loại, chỉ có một hệ thống dân tộc là tham gia vào tuyến chuyển động lịch sử chính yếu trên, trong khi các hệ khác thì bị loại trừ. Thậm chí, nói chung, chúng ta còn không thể xem ngay cả các dân tộc từng bị cuốn vào chuyển động lịch sử này như tiến bộ không ngừng nữa. Khi nhìn vào châu Á chẳng hạn, ta thấy rằng nền văn minh đã từng hình thành ở đây, và phần này của thế giới đã kinh qua nhiều thời kỳ văn hóa. Thế nhưng, chuyển động ở đây nói chung đã thoái bộ. Bởi vì thời kỳ xưa cổ nhất của văn minh Á Đông mới là thời kỳ chói lọi nhất; đến thời kỷ thứ hai và thứ ba, khi ảnh hưởng của Hy Lạp và La Mã thống trị, nó đã không còn đáng kể nữa; và vào thời điểm xảy ra cuộc xâm lược của dân man di – Mông Cổ – nền văn minh Châu Á đã hoàn toàn kết thúc. Đối mặt với thực tế này, một số người đã cố thử quay lại giả thuyết về một sự tiến bộ địa lý. Nhưng tôi phải nói ngay từ đầu rằng, nếu ta giả định, như Piotr Đại Đế[2] chẳng hạn, rằng nền văn minh đã đi khắp thế giới theo đường tròn – đến từ phương Đông, rồi lại quay về đấy một lần nữa – thì đây là một khẳng định rỗng.
Điểm thứ hai: có một sai lầm khác cần phải tránh – đấy là giả định rằng sự tiến bộ dần dần suốt nhiều thế kỷ này bao gồm đồng thời mọi nhánh của đời sống và mọi kỹ năng của con người. Ở đây chỉ cần lấy ví dụ trong một lĩnh vực : lịch sử cho chúng ta thấy rằng, trong thời hiện đại, nghệ thuật đã phát triển mạnh nhất vào thế kỷ XV và đầu thế kỷ XVI, và suy thoái nhiều nhất vào cuối thế kỷ XVII và suốt ba phần tư đầu thế kỷ XVIII. Thơ cũng trải qua một tình huống song song: nghệ thuật này cũng chỉ có những giai đoạn ngắn ngủi ở đấy nó thực sự nổi bật, và nó cũng chẳng vươn lên mạnh mẽ gì hơn trong các thế kỷ sau.
Như vậy, một mặt, nếu ta loại bỏ quy luật địa lý về sự tiến bộ, mặt khác, nếu ta phải chấp nhận, như lịch sử dạy chúng ta, rằng nhiều quốc gia mà sự phát triển còn chưa bao gồm hết mọi lĩnh vực vẫn có thể bị xoá sổ, chúng ta sẽ nhận thức được rõ ràng hơn nội dung và ý nghĩa thực sự của sự chuyển biến không ngừng của nhân loại là gì. Nó được xây dựng trên sự tách rời và kết hợp các xu hướng trí thức lớn đang thống trị nhân loại, có khi một cái vươn lên trên những cái khác, có khi tất cả đều đứng ngang nhau trên cùng một tầm mức. Tuy nhiên, trong số các khuynh hướng này, luôn luôn có một hướng phát triển nào đấy chi phối và đẩy lui những xu hướng khác. Vào nửa sau thế kỷ XVI chẳng hạn, yếu tố tôn giáo đã chiến thắng một cách quyết định khiến văn học phải lùi bước. Rồi đến thế kỷ thứ XVIII, chủ nghĩa vị lợi đã chiếm được nhiều địa bàn hoạt động đến mức nghệ thuật và các ngành liên quan phải nhường chỗ cho nó. Ở mỗi thời đại của lịch sử loài người, một xu hướng chung lớn nào đó sẽ tự biểu hiện, và tiến bộ là sự kiện, ở mỗi thời kỳ, một chuyển động nào đấy của tinh thần con người, khi tạo thuận lợi cho khuynh hướng này, lúc cho khuynh hướng kia, đã tự biểu lộ một cách đặc biệt và độc đáo.
Tuy nhiên, nếu ta muốn giả định – đối lập với quan điểm được trình bày ở trên – rằng : trong cuộc sống của nhân loại, luôn luôn có sự tiến bộ ở mọi thời đại theo một định luật tỷ lệ nào đấy, mỗi thế hệ đều vượt trội tuyệt đối thế hệ đi trước, thế hệ mới nhất luôn luôn là được ưu đãi và đáng trân trọng nhất, những gì đến trước chỉ là hòn đá lót đường cho những gì tới sau,... thì đây sẽ là một sự bất công của Thượng Đế[3]. Một thế hệ bị đem làm trung gian như vậy sẽ không có ý nghĩa gì quan trọng, tự nó và cho nó, vì nó sẽ chỉ là viên đá lót chân cho thế hệ sau tiến lên, và sẽ không còn quan hệ trực tiếp với thần linh nữa. Nhưng tôi khẳng định rằng mọi kỷ nguyên đều đứng trực diện trước Thượng Đế, rằng giá trị của mỗi kỷ nguyên không nằm nơi những gì phát sinh từ nó, mà ở sự tồn tại của chính nó, nơi bản sắc riêng của nó. Chính từ đấy – từ bản sắc cá biệt này – mà sự nghiên cứu sử học, và đặc biệt hơn nữa, cuộc sống cũng như vai trò cá nhân trong lịch sử, có được một sự mê hoặc đặc biệt như vậy, bởi vì bây giờ tự thân mỗi kỷ nguyên phải được xem xét như một giá trị đặc thù xứng đáng có một nghiên cứu lịch sử.
Như vậy, sử gia trước hết phải nhìn vào cách người đời suy nghĩ và sống như thế nào ở một thời điểm nhất định; lúc đó ông ta sẽ thấy rằng, ngoài những ý tưởng cơ bản vĩnh cửu, bất di bất dịch nhất định (về đạo lý chẳng hạn), mỗi thời đại đều có đặc trưng, khuynh hướng, lý tưởng và tiêu chí riêng của nó. Tuy nhiên, nếu đúng rằng mỗi thời đại đều có lý do tồn tại và giá trị riêng, ta cũng không nên xem thường những gì phát xuất từ nó. Thứ hai, sử gia phải nhận thức được sự khác biệt giữa các thời đại riêng lẻ, để cân nhắc sự thiết yếu bên trong của dòng tiếp nối. Ở đây, không thể phủ nhận một tiến bộ nào đó. Dù sao, tôi phải khẳng định rằng nó không di chuyển theo đường thẳng, mà giống như một dòng lũ tự xoi đào lấy hướng đi của mình. Nếu có thể mạo hiểm nhận xét này về Thượng Đế, tôi sẽ nói rằng Ngài không đặt trước mắt Ngài thời này hoặc thời kia, nhưng xem xét toàn bộ lịch sử nhân loại trong tổng thể của nó, và cho tất cả cùng một giá trị như nhau. Chắc chắn rằng cái ý tưởng phải giáo dục loài người có phần chân lý trong đó. Nhưng trước Thượng Đế, mọi thế hệ nhân loại đều có cùng những quyền và cùng một lẽ biện chính. Làm sao sử gia có thể nhìn vấn đề dưới thứ ánh sáng nào khác?
Ngược dòng lịch sử dù xa tới đâu, chúng ta đều có thể nhận thấy một sự phát triển quyết định trong lĩnh vực lợi ích vật chất, một sự tiến bộ tuyệt đối ; ở đây, sự thoái bộ là khó có thể xảy ra, trừ phi có một cuộc đảo lộn kinh hoàng. Tuy nhiên, về mặt tinh thần, ta không thể nhận thấy dấu vết của sự tiến bộ. Ý tưởng đạo đức có thể được lan truyền rộng hơn ra bên ngoài, tất nhiên; và về các vấn đề văn hóa chẳng hạn, chúng ta cũng có thể khẳng định rằng những tác phẩm tuyệt vời mà nghệ thuật và văn học tạo ra ngày nay được nhiều người thưởng thức hơn trước đây. Tuy nhiên, sẽ thật là lố lăng nếu muốn trở thành một nhà sử thi vĩ đại hơn Homēros, hay một nhà bi kịch vĩ đại hơn Sophoklēs.
3 - PHẢI NGHĨ SAO VỀ CÁI GỌI LÀ NHỮNG «Ý TƯỞNG CHỈ ĐẠO» TRONG LỊCH SỬ ?
Tuy nhiên, các triết gia – chính yếu là trường phái Hegel – đã đưa ra một số ý tưởng nhất định về điều này, theo đó lịch sử nhân loại tự xoay chuyển như một quá trình lô-gic thành chính đề, phản đề và hợp đề, thành tích cực và tiêu cực. Nhưng sự sống tiêu vong trong thứ chủ nghĩa kinh viện này; và cái sử quan đó, cái quá trình lý trí tự phát triển theo các phạm trù lô-gic khác nhau ấy, cũng sẽ dẫn ta trở lại những gì chúng ta đã bác bỏ ở trên. Theo quan điểm này, chỉ có Ý Tưởng mới có một cuộc sống tự chủ, trong khi toàn thể người đời sẽ chỉ là những bóng ma hoặc sơ đồ tự nhận biết, tự thực hiện thông qua những Ý tưởng. Một quan niệm không xứng đáng về Thượng Đế và loài người nằm ở đáy của cái học thuyết cho rằng Tinh Thần-Thế Giới mang lại mọi thứ, như nó vốn luôn luôn như thế, thông qua sự xảo quyệt, và sự lợi dụng những ham muốn, đam mê của con người để đạt mục đích của mình; nó cũng chắc chắn chỉ có thể dẫn tới chủ nghĩa Phiếm thần. Lúc bấy giờ, loài người sẽ hoá thân thành Thượng Đế đang trong tiến trình tự sinh, thông qua một quy trình lý tính nằm sâu trong bản chất của nhân loại.
Như vậy, tôi chỉ có thể hiểu những ý tưởng chỉ đạo là các khuynh hướng thống trị trong mỗi thế kỷ, chứ không là gì khác hơn. Tất nhiên, các khuynh hướng này có thể được mô tả, nhưng cuối cùng không thể được tóm thâu vào một khái niệm duy nhất. Nếu không, chúng ta sẽ lại, một lần nữa, quay về những gì ta đã bác bỏ ở trên.
Sử gia phải phân tích các khuynh hướng lớn của mỗi thế kỷ, và triển khai dòng phát triển chính của lịch sử nhân loại, cái tuyến vốn chỉ là một phức hợp từ các khuynh hướng khác biệt này. Từ quan điểm của Ý tưởng linh thiêng, tôi không thể quan niệm vấn đề khác hơn thế, nhân loại mang trong lòng nó vô số phương hướng tiến hoá; chúng lần lượt xuất hiện theo các quy luật mà ta chưa biết, nhưng bí ẩn hơn và vĩ đại hơn chúng ta nghĩ.
4 - ĐỐI THOẠI VỚI VUA MAXIMILIAN II
MAXIMILIAN II: Ông vừa nói tới tiến bộ tinh thần. Trong đó, ông có kể cả tiến bộ nội tâm của cá nhân không?
RANKE: Không, chỉ sự tiến bộ của loài người mà thôi. Còn cá nhân, hắn phải luôn luôn tự vươn mình lên một trình độ tinh thần cao hơn chứ.
MAXIMILIAN II: Nhưng đây không phải là một vấn đề còn để ngỏ ư? Nhân loại bao gồm mọi cá nhân, nên khi mỗi cá nhân tự vươn mình lên một cấp độ cao hơn, há sự tiến bộ này lại không bao gồm toàn thể nhân loại sao?
RANKE: Cá nhân chết đi, nó chỉ có một tồn tại hữu hạn; tự thân nhân loại là một tồn tại vô hạn. Tôi chấp nhận có sự tiến bộ trong lĩnh vực vật chất, bởi vì ở đây, vật này tiến hóa từ vật kia; nhưng trong lĩnh vực tinh thần thì không phải như thế. Tôi tin rằng ở mỗi thế hệ, sự vĩ đại tinh thần thực hiệu đều ngang bằng với mọi thế hệ khác, và về sự vĩ đại tinh thần thì không có cái nào cao hơn cái nào cả. Chúng ta không thể vượt qua sự vĩ đại tinh thần của thời cổ đại chẳng hạn. Chẳng những thế, điều thường xảy ra trong thế giới tinh thần là, sự vĩ đại về chiều sâu phát triển theo tỉ lệ nghịch với sự vĩ đại về chiều rộng – hãy thử so sánh văn học của chúng ta ngày nay với nền văn học cổ điển xem.
MAXIMILIAN II: Nhưng há không phải là ngày nay đã có một lượng cá nhân đạt tới sự phát triển tinh thần cao hơn so với trước kia sao?
RANKE: Tôi thừa nhận điều này, nhưng đây không phải là một vấn đề nguyên tắc. Vì lịch sử dạy chúng ta: rằng nhiều dân tộc thậm chí còn không có khả năng đạt tới một thứ văn hóa, rằng có những thời đại tuy đến sớm hơn trong lịch sử nhưng thường lại có giá trị tinh thần cao hơn nhiều so với các thời kỳ tới sau – ví dụ, vào giữa thế kỷ XVII, nước Pháp có đạo đức và văn hóa hơn nhiều so với cuối thế kỷ XVIII. Và như đã nói, chúng ta có thể khẳng định một sự lan tỏa những ý tưởng đạo đức chẳng hạn rộng lớn hơn, nhưng chỉ trong một số giới nhất định. Đối với tôi, nhìn từ quan điểm nhân văn phổ quát, có vẻ như ý tưởng về nhân loại, cái vốn chỉ được biểu dương trong lịch sử ở các quốc gia lớn, sẽ dần dần bao trùm mọi quốc gia; nếu điều này xảy ra, đây sẽ là một tiến bộ tinh thần trong lòng nhân loại. Thế nhưng lịch sử đã không chứng minh, cũng không bác bỏ quan điểm này. Chúng ta phải đặc biệt đề phòng việc nâng nó lên thành một nguyên lý của lịch sử. Nhiệm vụ của sử gia chỉ đơn thuần là bám sát vào những sự kiện.
MAXIMILIAN II : Dù sao, ta cũng phải chấp nhận rằng, ngoài quyền tự quyết của cá nhân, đấng Quan Phòng còn đặt cho toàn thể loài người một cứu cánh nào đó, và dẫn dắt nhân loại tiến về đấy chứ, cho dù không phải bằng bạo lực đi nữa?
RANKE: Đây là một giả thuyết vũ trụ luận, nó không thể được chứng minh bằng lịch sử. Chúng ta đã từng có một phán quyết của Thánh Kinh, rằng một ngày kia sẽ chỉ còn một người chăn cừu và một đàn cừu; thế nhưng cho đến nay, nó chưa hề hiển lộ như biểu đạt thống trị của dòng lịch sử thế giới. Tôi chỉ cần dẫn lịch sử Á châu làm bằng chứng: sau nhiều thời kỳ trổ hoa kết trái, nó đã rơi trở lại tình trạng dã man.
Như ta đã thấy, khái niệm về sự tiến bộ mà cuộc thảo luận mở đầu của chúng ta ưu tiên quan tâm là không thể áp dụng cho nhiều đối tượng khác nhau. Nói tổng quát, nó không thể áp dụng cho sự kết nối của nhiều thế kỷ; nghĩa là, người ta không thể nói rằng một thế kỷ này là công cụ của thế kỷ kia. Hơn nữa, khái niệm trên không thể áp dụng cho những sáng tạo của các thiên tài trong nghệ thuật, thi ca, khoa học, và các vấn đề dân sự; vì tất cả những thứ này liên quan trực tiếp đến linh giới. Chắc chắn rằng chúng đều mang tính thời gian; nhưng bản thân hành động sáng tạo thì không phụ thuộc vào thời đi trước và thời theo sau. Vì vậy, Thoukydidēs, người tạo ra thuật ký sử, vẫn không thể nào bị vượt qua trong phong cách riêng của ông..
Chúng ta cũng khó có thể giả định một sự tiến bộ như vậy trong đời sống đạo đức hoặc tôn giáo của cá nhân; vì điều này cũng liên quan tức thì tới Thượng Đế. Nhiều lắm, người ta chỉ có thể thừa nhận rằng các khái niệm trước đây về đạo đức là không hoàn hảo; nhưng từ khi Ki-tô giáo xuất hiện với đạo đức và tôn giáo chân chính, thì không tiến bộ nào có thể xảy ra trong lĩnh vực này nữa. Cũng sẽ đúng nếu ta nói, chẳng hạn, rằng một số quan niệm dân tộc như tục cho phép trả thù, từng chiếm ưu thế trong xã hội Hy Lạp, đã được thanh tẩy bởi Ki-tô giáo; nhưng không phải vì vậy mà có thể nói rằng bản chất của đạo Ki-tô đã được chuẩn bị bởi những điều kiện không hoàn hảo trước đấy. Vì Ki-tô giáo là một sự xuất hiện linh thiêng đột ngột, nên giống như mọi sáng tạo vĩ đại của thiên tài, đều mang trong nó đặc trưng của nguồn cảm hứng trực tiếp, tức thì. Sau Platōn không thể có Platōn nào khác; và dù tôi đánh giá đóng góp của Schelling cho triết học lớn đến đâu, tôi vẫn không tin rằng ông ấy đã vượt qua Platōn.
Tuy nhiên, tiến bộ được giả định trong mọi vấn đề liên quan đến tri thức và sự kiểm soát thiên nhiên. Tri thức có thời thơ ấu của nó trong thời cổ đại; nhưng thời cổ đại lại không thể so sánh với thời chúng ta ở khía cạnh kiểm soát thiên nhiên. Khác biệt này liên quan nhiều hơn tới cái chúng tôi gọi là sự mở rộng. Sự mở rộng các tư tưởng đạo đức và tôn giáo, các ý tưởng về nhân loại nói chung, không ngừng tiến bộ; và khi một trung tâm văn hóa tồn tại ở nơi nào, thì văn hóa có xu hướng mở rộng theo mọi hướng – nhưng không phải theo cách khiến ta có thể nói rằng sự tiến bộ sẽ không bị chặn đứng ở đâu cả. Như vậy, trong những vấn đề vật chất hơn, trong sự phát triển và ứng dụng các khoa học chính xác, cũng như trong nền giáo dục của các quốc gia và ở những cá nhân khác nhau, trong ý tưởng về nhân loại và văn hóa, sự tiến bộ là không thể chối cãi.
Dù sao, vẫn còn một câu hỏi đặc biệt phải đặt ra cho các ngành nhân văn – cụ thể là triết học và chính trị học – liệu sự tiến bộ có thực sự xảy ra ở đây chăng? Về triết học, tôi phải thú nhận rằng triết học truyền thống, như chúng ta đã thấy nó được phát triển ở Platōn và Aristotelēs, là đủ đối với tôi. Về mặt hình thức, chúng ta chưa bao giờ vươn xa hơn nó; và nhiều triết gia gần đây cũng đang quay trở lại với bản sắc của chủ thuyết Aristotelēs. Điều này cũng đúng đối với chính trị học: các nguyên tắc chung đã được nêu lên một cách chắc chắn trong các danh thư cổ, mặc dù những thời kỳ tiếp theo đều phong phú hơn thời xưa nhiều, cả về kinh nghiệm phát triển lẫn các cuộc phiêu lưu chính trị. Tất nhiên, chính trị đương thời luôn luôn dựa trên những điều kiện do lịch sử trao lại… Nhưng các thời kỳ sau chỉ có lợi thế hơn thời cổ đại ở chỗ chúng có được những kinh nghiệm chính trị đã được triển khai trọn vẹn hơn trong tầm tay. Tương tự như vậy, vấn đề chủ quyền phổ biến cũng không thể giải quyết bằng khoa học được, mà phải được giải quyết trong lịch sử, bằng sự tập hợp các phe nhóm. Những gì tôi đã nói về chính trị học cũng áp dụng cho sử học. Như đã đề cập, không ai có thể tự cho là một sử gia vĩ đại hơn Thoukydidēs, nhưng tôi khẳng định mình đang đạt được điều gì đó về ký sử khác với người xưa, bởi vì lịch sử của chúng ta phong phú hơn của họ, bởi vì chúng ta tìm cách đưa vào sử học những yếu tố bao trùm toàn bộ cuộc sống của các quốc gia, bởi vì nói ngắn gọn, chúng ta tìm cách nắm bắt lịch sử trong sự thống nhất của nó.
Leopold von Ranke,
Ueber die Epochen der neueren Geschichte
(Trg: Weltgeschichte (Theil IX, 2 Abth.,
Leipzig, Duncker & Humblot, 1888, tr. 2-13) =
Des époques de l'histoire moderne,
(Première conférence, 25-09-1854)
[1] Maximilian II của Bayern (1811-1864), thuộc dòng dõi Wittelsbach, là vua của Bayern từ năm 1848 đến 1864, một thời kỳ quan trọng của vùng đất này. Ông được biết đến như người bảo trợ cho khoa học, và sự lãnh đạo sáng suốt của ông chắc chắn đã ảnh hưởng tới sự phát triển văn hóa và khoa học của vương quốc.
[2] Piotr Alekseïevič Romanov (1672-1725), Sa Hoàng nước Nga, đồng cai trị với vua anh cùng cha khác mẹ là Ivan (1682-1696), sau đó một mình, trước khi trở thành Hoàng Đế của Đế Quốc Nga (1721-1725). Ông được xem là một trong những nhà cải cách kiệt xuất trong lịch sử Nga, do đó, được tôn vinh là Piotr Đại đế (Peter hay Pierre Đại Đế). Có thể xem thêm về nhân vật này bằng t,iếng Việt trên Wikipedia.
[3] Xem thêm, trên cùng trang mục này, khi có thể tham khảo : Nikolaj Aleksandrovič Berdjaev, Chủ Nghĩa Tiến Bộ Như Một Tôn Giáo.