XÃ HỘI HỌC ĐỨC TỪ 1918 ĐẾN 1933 (K. MANNHEIM, 1953)

LM : 15-8-2025
Từ khóa : Xã hội học, Đức, 1918-1933 – Xã hội học, Anh
– Xã hội học, Hoa Kỳ –Mannheim (Karl), Trích đoạn

C2

XÃ HỘI HỌC ĐỨC
TỪ 1918 ĐẾN 1933
1953)

Tác giả: Karl Mannheim[1]
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa

*

Dù tạm thời hoặc vĩnh viễn, sự sụp đổ của bất kỳ một sự kiện có ý nghĩa nào cũng luôn luôn mời gọi một hồi tưởng thận trọng, nhằm xem xét những ưu và khuyết điểm của nó. Ở Đức, chúng ta vừa chứng kiến sự đổ vỡ của một trong những hình thức văn hóa quan trọng nhất nền văn hóa dân chủ[2] – cái vốn đã đạt tới một giai đoạn phát triển rất cao ở đây. Do đó, một sự cân nhắc sẽ phải được thực hiện dần dần về những thành tựu của nền văn hóa ấy trong mỗi lĩnh vực của nó. Bài viết này chỉ tìm cách đạt được một thẩm định như vậy cho lĩnh vực xã hội học. Nhưng điều cần phải chỉ ra ngay từ đầu – vấn đề sẽ được thảo luận dài hơi sau đó – là một sự kiện có tầm quan trọng sống chết đã được phản ánh ngay trong lĩnh vực xã hội học, bởi vì chính trong lĩnh vực đặc biệt này mà các lực lượng tinh thần và văn hóa của nước Đức sau chiến tranh đã tìm cách tự định hình chúng. Cả quan điểm hàng ngày về thế giới lẫn các ngành khoa học riêng biệt đều tìm thấy sự thể hiện chúng thông qua những khía cạnh mới của xã hội học, và ngược lại, khoa xã hội học đã cố gắng là hiện thân trung thực của toàn bộ kho tàng tri thức mới mà các ngành khoa học riêng biệt và cuộc sống hàng ngày cống hiến cho nó. Tuy nhiên, phân tích sau đây không thể được xem là một báo cáo chi tiết về những thành tựu của xã hội học Đức sau chiến tranh, theo bất kỳ nghĩa nào. Điều chúng tôi quan tâm hơn là đưa ra một bức tranh sống động về sự phát triển gần đây nhất của xã hội học Đức, giải thích những đặc trưng của sự phát triển này từ nền tảng xã hội của nó, và đối chiếu, trong một phác thảo sơ bộ, bản chất của những nỗ lực nơi các nhà xã hội học Đức trong khoảng thời gian từ năm 1918 với những thành tựu của khoa xã hội học ở các quốc gia khác. Tóm lại, mục đích của bài viết này là đưa cả một chùm sao tinh thần, hiện đã biến mất, đến gần với công chúng nước ngoài hơn. Bởi vì chúng tôi tin rằng, bất chấp các khuynh hướng tự lập tự túc đương thời, và thực ra phần nào như một phản ứng chống lại các khuynh hướng ấy, thứ cảm thức đang phát triển ở một số giới là, do tri thức là tài sản chung của toàn thế giới, công chúng có nghĩa vụ phải cố gắng cứu lấy những gì mà một số lực lượng nào đấy đang nỗ lực tiêu diệt vì những lý do cục bộ. Hơn nữa, chúng tôi còn tin rằng, cả về mặt lịch sử lẫn xã hội, chúng ta cũng đã tiến bộ xa tới mức là, nếu muốn, chúng ta có khả năng sẽ cứu được không chỉ những cá nhân mà còn cả toàn bộ các chùm sao tinh thần, ở bất cứ nơi nào chúng xứng đáng được cứu giữ, và nếu có nhu cầu, giúp  cho chúng tiếp tục định hình trên các vùng đất khác.

Với những vấn đề như vậy được đặt lên hàng đầu: bài thảo luận này cố gắng vẽ ra một bức tranh về sức sống bên trong của trào lưu xã hội học ở Đức vào thời điểm sụp đổ và, vì đây là mục tiêu chỉ đạo của mình, chúng tôi thường sẽ đề cao những tác phẩm mới, và tên họ của các học giả trẻ, tuy chưa được biết tới rộng rãi nhưng cũng đang thành danh, hơn là những cái tên đã trở thành quen thuộc ở nước ngoài.

Tôi sẽ bắt đầu (I) bằng một nỗ lực đặc trưng hoá tổng quát trào lưu xã hội học Đức vào thời kỳ này; sau đó (II) bàn tới những điều kiện lịch sử thiết yếu trước đấy; và sẽ kết luận (III) bằng một cuộc thảo luận về các tác phẩm xã hội học, những vấn đề, và các nhân vật đã xuất hiện trong giai đoạn phát triển gần đây nhất.

I – NHỮNG ĐẶC TRƯNG TỔNG QUÁT

Nếu được yêu cầu tóm tắt tầm quan trọng của xã hội học Đức kể từ năm 1918 trong một câu, tôi sẽ nói: xã hội học Đức là sản phẩm của một trong những cuộc giải thể và tái tổ chức xã hội lớn nhất, đi kèm với một hình thức tự giác và tự phê cao nhất. Để hiểu câu này, cần phải phân tích những gì nó bao hàm một cách khá chi tiết. Đầu tiên,  chúng ta phải nhất trí rằng một quá trình giải thể xã hội và khủng hoảng không chỉ đơn thuần là một quá trình tiêu cực. Bởi sự quan trọng của các cuộc khủng hoảng nằm ở sự kiện chúng không chỉ đơn giản là sự tan rã, mà thật ra còn là những nỗ lực mà xã hội thực hiện nhằm kiểm tra toàn bộ tổ chức của nó, và trong suốt quá trình thực thi nỗ lực này, sự ích lợi và giá trị của mọi thiết chế cũng như của mọi hình thức quan hệ tinh thần và văn hóa đều được đưa ra thử nghiệm trong những điều kiện hoàn toàn mới. Trong bối cảnh này, xã hội học lúc đó sẽ được xem, không chỉ như sản phẩm của tiến trình giải thể này, mà còn như một nỗ lực thuần lý nhằm hỗ trợ sự tổ chức lại xã hội con người, sự tổ chức lại và tự thích nghi của bản thân mỗi cá nhân nữa. Những gì chúng ta đọc trong các sách giáo khoa và chuyên luận về xã hội học thường chẳng là gì khác hơn là một bộ sưu tập những hiểu biết mới đã đạt được trong các giai đoạn bất ổn xã hội như vậy khi nhìn lại quá khứ. Trong các tác phẩm của Saint-Simon (1760-1825)* và A. Comte (1798-1857)* chẳng hạn, tác động của những trải nghiệm trực tiếp tương tự vẫn còn rõ như đập vào mắt. Nếu chức năng của một thời kỳ khủng hoảng và đảo lộn được xác định theo nghĩa này, thì giai đoạn từ năm 1918 có thể thực sự được mô tả như thời kỳ năng động nhất trong lịch sử xã hội Đức. Đây là thời kỳ năng động nhất của xã hội, bởi vì hai thập kỷ ấy đã chứng kiến sự di dịch liên tục và chuyển đổi vị thế không ngừng của các lực lượng xã hội. Tuy nhiên, dù chúng ta có thể đánh giá yếu tố năng động trong đời sống xã hội cao đến đâu, tự thân sự thay đổi không sản sinh ra khoa xã hội học, nếu không thì mỗi thời kỳ bất ổn xã hội đều phải làm cho khoa học này phong phú thêm. Chỉ khi nào sự thay đổi đi đôi với một năng lực nghiên cứu khách quan được phát triển cao độ, và một khả năng tự giác đích thực cho phép ta định hình và diễn đạt những kinh nghiệm của mình, chỉ khi đó chúng ta mới có thể trông mong có được một xung lực điều tra xã hội học hiệu quả. Nội dung của nền xã hội học mới hơn này tại Đức đã xuất phát từ những kinh nghiệm của mười bốn năm trước, nhưng sự rèn luyện tinh thần cần thiết nhằm nhận thức các vấn đề nảy sinh từ những biến cố của các năm đó là kết quả của cả một quá trình phát triển lịch sử lâu dài mà chúng tôi sẽ xử lý sau đây.

Đối với các lực lượng năng động của mười bốn năm đã qua, nền xã hội học Đức phải nhận ba khoản nợ sau.

1 - Cái ý thức rằng mỗi sự kiện xã hội là một hàm của thời điểm và địa điểm nó xảy ra. Tuy nhiên, đến lượt chúng, thời điểm và địa điểm chỉ có ý nghĩa khi liên quan tới cái toàn bộ của một xã hội nhất định. Quan niệm này không chứa đựng gì mới, đây là một khẳng định thường được lặp đi lặp lại. Tuy nhiên, nó chỉ là một giả thuyết nhà khoa học thử đưa ra cho đến nay; bây giờ, nó cần phải được đưa vào thử thách bằng kinh nghiệm trong cuộc sống hàng ngày. Những người sống trong một xã hội vững chắc với một truyền thống cố định thường không nhận ra tính hay biến đổi và phụ thuộc lẫn nhau của những hiện tượng xã hội; họ nhìn mọi vật trong sự cô lập, và tưởng tượng rằng mọi thứ đều có một tồn tại biệt lập và độc lập. Sự giải thể càng sâu xa trong xã hội, và thói quen của chúng ta càng biến thiên cho phù hợp với các tình huống đã thay đổi, thì sự phụ thuộc chức năng của những sự kiện vào nhau càng trở nên rõ rệt hơn. Như vậy, những nội dung mà một thời kỳ giải thể xã hội triệt để mang lại cho xã hội học là: (a) sự đạt tới một quan điểm nhất quán về tính biến đổi của những nhân tố xã hội; (b) một hiểu biết về sự phụ thuộc lẫn nhau không tránh khỏi của những nhân tố xã hội; (c) và thói quen nhìn thấy mỗi nhân tố riêng biệt trong quan hệ đúng đắn của nó với cái toàn thể của một xã hội nhất định.

2 - Không chỉ tính biến đổi của những sự kiện xã hội khách quan nêu trên –  như các định chế gia đình, chính đảng, hiến pháp, v. v… – mà toàn thể phạm vi đời sống tinh thần nữa cũng xuất hiện dưới ánh sáng mới của tính biến đổi liên tục ấy.

Hệ quả đầu tiên và khó tránh khỏi của sự bất ổn xã hội này là một ý thức tổng quát về tính tương đối của những giá trị đạo đức, thẩm mỹ và trí tuệ. Một cuộc khủng hoảng đạo đức là điều không thể tránh được sớm hay muộn, và chỉ có hai cách để thoát khỏi nó. Quần chúng, những người không thể hiểu được tầm quan trọng của những thay đổi này, đòi hỏi phải quay trở lại những hình thức tổ chức cũ hơn, và các chuẩn mực đạo đức dường như rất đáng tin cậy mà đằng sau chúng cá nhân từng tìm thấy một nơi trú ẩn an toàn như vậy; đây là một trong các con đường từng dẫn quần chúng đến Chủ nghĩa Phát xít. Các nhóm trí thức tạo thành một phần của khối quần chúng này; họ là những người có khả năng hiểu sự bất ổn trên tận bản chất, nhưng không ngây thơ đến mức chỉ đơn giản muốn quay đồng hồ lịch sử lại, nên bảo vệ «chủ nghĩa quyết định» lý thuyết. Về cơ bản, chủ nghĩa quyết định có nghĩa là thà lấy bất kỳ quyết định nào còn hơn là không có quyết định nào cả; chính sách mạo hiểm của họ xuất phát từ đấy. Chỉ một nhóm người nhỏ có thể tự rứt ra khỏi cái thế lưỡng nan về đạo đức này, và cuộc chiến cần thiết với khả năng thay đổi của những giá trị, cuối cùng, sẽ đưa họ tới một vị trí đạo đức mới, đồng thời đến một lý thuyết mới về các giá trị xã hội.

Các nhóm cá nhân tiến bộ hơn nhận ra rằng «trong lịch sử thì cái đã qua sẽ vĩnh viễn là cái đã qua», và càng sống qua một thời kỳ thay đổi xã hội liên tục, thì họ càng thấy thứ quan niệm về các chuẩn mực đạo đức và luân lý thường trực đến từ bên ngoài là ít an toàn. Loại nhân cách năng động, tức là một cá nhân đã quen với sự thay đổi liên tục, rốt cuộc sẽ dễ lập lại, như hệ quả của một quá trình suy tư sâu sắc, trạng thái cân bằng đạo đức của đương sự hơn. Không giống như loại nhân cách tĩnh tại, thứ vốn luôn luôn tìm thấy sự đảm bảo cho giá trị của hành vi đạo đức trong ý niệm về sự thường trực của các giá trị xã hội, loại năng động biết nhận thức sự kiện là, cho dù toàn bộ các giá trị có thể thay đổi theo thời gian đi nữa, một số giá trị nào đó vẫn là không thể tách rời khỏi một số tình huống đã cho. Theo quan điểm động lực học về xã hội (social dynamics), các giá trị đạo đức có thể thay đổi, các tình huống có thể thay đổi, nhưng bất kỳ tình huống cụ thể nào cũng liên quan không thể tách rời với các chuẩn mực cụ thể. Do đó, lý thuyết được đặt trên sự kiện này được gọi là «tương quan luận (relationism)» chứ không phải «tương đối luận (relativism)» hay «thuyết tương đối». Tương đối luận có nghĩa là không có các giá trị khách quan, do đó nghĩa vụ đạo đức không thể tồn tại. Mặt khác, tương quan luận nhấn mạnh rằng có một nghĩa vụ luân lý, nhưng nghĩa vụ này được rút ra  từ hoàn cảnh cụ thể hữu quan. Xã hội học rút ra từ cách diễn giải này một cách hiểu rõ ràng về liên hệ chức năng giữa những tình huống xã hội với các giá trị đạo đức. Giá trị và ý tưởng không còn bị xem như biệt lập nữa, mà liên tục được liên hệ với những tình huống xã hội và cấu trúc xã hội. Có bao nhiêu vấn đề trong xã hội đương đại, thì sự biến đổi không ngừng, cái vốn là nét đặc trưng của lịch sử tư tưởng đạo đức, đặt ra cho chúng ta bấy nhiêu vấn nạn. Những vấn nạn này nảy sinh từ những cuộc đấu tranh mà vô số các nhóm nhỏ, mỗi nhóm với thứ đạo nghĩa riêng của mình, tuyên chiến chống chọi nhau. Tóm lại: từ nay trở đi, không chỉ các sự kiện khách quan của đời sống xã hội phải được quan sát trong tương quan giữa chúng với nhau, mà cả các lực lượng tinh thần (tức là các quy phạm và ý tưởng) nữa, cũng phải được quan sát trong quan hệ của chúng với quá trình xã hội.

3. Bên cạnh sự phụ thuộc lẫn nhau dễ thấy giữa những sự kiện khách quan và ý tưởng, tính lưu động xã hội và sự giải thể xã hội này còn tác động trở lại trên tâm lý con người; do đó, một thời kỳ biến động xã hội cỏn có khía cạnh tâm lý của nó nữa. Không có biến đổi xã hội nào mà không có sự thay đổi các chuẩn mực; nhưng phần lớn sự thay đổi các chuẩn mực là biểu hiện của những thay đổi về thói quen và thái độ của con người. Trong trạng thái không ổn định này, cá nhân không ngừng bị ném trở lại chính mình, và do cảm giác bất an trong bản thân thúc đẩy, anh ta phải liên tục suy ngẫm về điều ấy, để cuối cùng trở thành kẻ có thói quen tự phân tích. Cái cơ chế tâm lý vốn chỉ hoạt động một cách vô thức trong thời kỳ tĩnh này trở nên rõ ràng trong các thời kỳ tiến hóa động.

Tác động của sự đu đưa vô hình của các lực lượng xã hội và sự biến đổi liên tục của chúng trên tiềm thức của cá nhân và tập hợp trở thành một quan tâm lớn hơn đối với các nhà xã hội học, so với việc mô tả và phân loại đơn giản những hiện tượng khách quan của đời sống văn hóa xã hội. Cho dù nhiều kết quả của phân tâm học có thể đặt vấn đề bàn bạc tới mức nào, sự khám phá ra môn tâm lý học về tiềm thức và khoa xã hội học về nhận thức (Wissenssoziologie) đều thuộc về sự phát triển gần đây của xã hội học Đức. Nhiều vấn đề trong số này từng được các nhà xã hội học Anh, Mỹ, Pháp biết rõ, nhưng đối với tôi, sự khác biệt thực sự giữa xã hội học Đức và xã hội học Pháp, Anh, Mỹ là: trong khi các nhà xã hội học Pháp, Mỹ, Anh đã xử lý nhiều vấn đề trong số đó trong sự biệt lập, các nhà xã hội học Đức đã nỗ lực giải quyết mỗi vấn đề từ ba cách tiếp cận mà tôi đã thảo luận.

Xin nhắc lại, ba cách tiếp cận này là:

1. Việc xem mỗi nhân tố khách quan biệt lập như một phần của tổng thể đang thay đổi của xã hội.

2. Việc đặt mỗi hiện tượng tinh thần và ý tưởng trong tương quan của nó với những hoàn cảnh xã hội cụ thể.

3. Việc nhìn thấy trong mỗi thái độ tinh thần và mỗi hình thức của hành vi con người sự thích ứng của vô thức vào các tình huống mới.

II – BA XU HƯỚNG TƯ DUY CHUẨN BỊ

Cho đến nay, tôi đã tập trung chỉ ra món nợ mà nền xã hội học Đức gần đây đã mắc phải đối với quá trình tan rã và thay đổi đương thời ở nước Đức..Nhưng tôi cũng đã cẩn thận chỉ ra rằng, mặc dù các sự kiện và vấn đề có thể được rút ra từ hiện tại, việc giải thích chúng và lập thuyết về chúng chỉ có thể thực hiện được bởi vì tư tưởng xã hội học đã có đằng sau nó một lịch sử lâu dài. Khả năng tự phê bình và tự ý thức của xã hội từng đạt tới mức độ hoàn thiện cao như đã đề cập ở trên, khi cơn đại hồng thủy về xã hội, chính trị và kinh tế này xảy ra. Trong vô số xu hướng tư duy chuẩn bị, tôi chỉ muốn đề cập tới ba khuynh hướng. (1) Phần đóng góp của những người theo chủ thuyết Hegel, và các trường phái triết học khác. (2) Tầm quan trọng của thứ tư tưởng xã hội học phi hàn lâm chỉ mới được sáp nhập vào chương trình giảng dạy đại học gần đây, chẳng hạn như chủ nghĩa Marx. (3) Những đóng góp của Wilhelm Dilthey (1833-1911)* và Georg Simmel (1858-1918)*.

1 - Georg Wilhelm Friedrich Hegel

Khả năng nắm vững những sự kiện và nhận thức chúng dưới ánh sáng lý thuyết là món nợ của xã hội học đối với triết học Đức, và chủ yếu là với G. W. F. Hegel (1770-1831)*. Tất nhiên, khi nhắc đến Hegel, tôi không nghĩ tới cái nhóm các triết gia tuy đông đảo nhưng không quan trọng, những người thay vì thu thập và điều tra thấu đáo mọi sự kiện, chỉ để lại cho chúng ta những ấn tượng thuần túy chủ quan và ít nhiều không đáng kể của họ về chúng. Hegel phải chịu trách nhiệm về, vừa những ảo tưởng tư biện thuần túy của thứ triết lý xã hội tồi tệ này, vừa cái năng lực xây dựng của phần điều tra xã hội học chân chính. Bởi vì chúng ta phải phân biệt hai thứ trí tuệ, tư biện và kiến tạo, cái sau là không thể thiếu, cũng như cái trước là tai hại, cho bất kỳ một nghiên cứu thực nghiệm nào. Tư duy kiểu tư biện có nghĩa là ta cứ ngồi ở bàn làm việc mà lập thuyết, bằng những ý tưởng mơ hồ và không thể kiểm chứng được, về đủ mọi thứ đối tượng. Tư duy kiến tạo, trái lại, bao hàm sự xây dựng, bằng những nỗ lực của óc tưởng tượng sáng tạo, một cấu trúc tuy ăn sâu vào chính những hiện tượng, nhưng lại không thể được khám phá ra chỉ thông qua sự quan sát đơn thuần và trực tiếp bất kỳ một mẩu hiện thực biệt lập nào. Xét cho cùng, mọi thứ xã hội học đều bắt nguồn từ triết học lịch sử; và ở mọi quốc gia, xã hội học đều ra đời như kết quả của ý muốn vượt ra ngoài giới hạn của triết học thuần túy. Nhưng ở mọi quốc gia, xã hội học cũng đều được phân biệt với nhau bởi cách chúng vượt qua những giới hạn ấy. Xã hội học Mỹ đã vượt qua chúng bằng cách lật đổ hoàn toàn mọi triết lý lịch sử, và kết thúc với một tập hợp khái quát hóa thực nghiệm không còn có thể bao quát được những sự kiện đa dạng của xã hội nữa. Từ triết học lịch sử, xã hội học Anh giữ lại, bên cạnh vài thứ khác, lý thuyết về các giai đoạn lịch sử và nền tảng tâm lý xã hội của môn học. Xã hội học Đức giữ lại từ học thuyết của Hegel cái quan niệm động, mặc dù không giải quyết vấn đề tiến hoá xã hội bằng một công thức đơn giản như cách trình bày triết học về phép biện chứng của ông gợi ý. Cái năng khiếu không nhìn thấy sự kiện một cách đơn giản như chúng diễn ra trong cuộc sống hàng ngày – nghĩa là không có bất kỳ liên hệ nào với các lực lượng xã hội thống trị và với toàn bộ tình hình xã hội hiện hữu ở bất kỳ thời điểm nào – bắt nguồn từ Hegel. Thật ra, những người khẳng định rằng xã hội học Đức vẫn chưa vượt qua được cái phương pháp luận và triết học về các giai đoạn đều không quen thuộc với những phát triển gần đây hơn của nó; mặc dù cũng đúng là nhiều nhà xã hội học người Đức vẫn còn thấy mình đang ở trong các giai đoạn ấy. Trong số những thành viên tiêu biểu hơn của thế hệ các nhà xã hội học Đức trẻ, ta có thể nhận thấy một nỗ lực thực sự hướng về điều tra thực nghiệm, mặc dù thứ chủ nghĩa kinh nghiệm này của họ là một quan niệm khá phức tạp.

2 - Karl Marx và Lorenz von Stein

Sự kiện thứ hai tôi kể ra là sự tiếp nhận và phân tích phê phán chủ nghĩa Marx trong những thảo luận học thuật. Món nợ của chủ nghĩa Marx đối với  Hegel là sự thừa nhận lịch sử như dòng phát triển của những lực lượng đối kháng. Karl Marx (1818-1883)* và Lorenz von Stein[3] (1815-1890) đã làm cho quan niệm này trở nên hiện thực hơn, bằng cách đặt dấu nhấn trên khía cạnh kinh tế và ảnh hưởng của những xung đột giai cấp trong quá trình phát triển lịch sử. Triết học của Marx còn phải nhận nợ từ sự phát triển tư tưởng kinh tế ở Anh nữa, còn các ý tưởng của Stein thì từ phong trào xã hội ở Pháp, nơi công thức lý thuyết ban đầu của nó bắt nguồn từ những suy đoán ngây thơ hơn của Saint-Simon. Cho đến khi Cộng hòa Đức ra đời, giống như nhiều lý thuyết xã hội khác, chủ nghĩa Marx chỉ được xem là một «lý thuyết [chính trị] đối lập», nghĩa là giới hàn lâm không quan tâm mấy đến nhánh tri thức này. Lợi thế của tình hình trên là nhiều vấn đề thực tiễn cấp bách của cuộc sống hàng ngày và của những căng thẳng chính trị đã có được một diễn giải kiểu xã hội học trong bộ môn ngoài bản đồ học thuật này; nhưng nó có điểm bất lợi là cái lý thuyết phi hàn lâm ấy đã luôn luôn bị lạm dụng cho mục đích tuyên truyền, lại bị vận dụng bởi kẻ không chuyên, nên yếu tố nghiệp dư chắc chắn đã len lỏi vào đấy. Sau khi thành lập nền cộng hòa, những vấn đề nảy sinh từ các lý thuyết nói trên đã được thảo luận tự do tại các đại học. Hệ quả của tình hình này là các giáo sư theo chủ nghĩa tự do, không theo chủ nghĩa Marx, bắt đầu tự chọn lấy những khía cạnh quan trọng nhất của chủ thuyết Marx, để sau đó hoặc nỗ lực chứng minh, hoặc bác bỏ tính đúng đắn của chúng một cách thực nghiệm. Cuối cùng, sự tranh cãi đơn thuần về các nguyên tắc hoá ra lại trở thành một bước tiến về tri thức. Chúng ta không thể suy nghĩ về những đối thủ được công nhận của chủ nghĩa Marx – Max Weber* (1864-1920), Ernst Troeltsch (1865-1923)*, Werner Sombart (1863-1941)*, Max Scheler (1874-1928)*[4]  – mà không gắn liền tên họ của các vị với Karl Marx.  

3 - Các Khoa học Tinh thần (Geisteswissenschaften)

Bản phác thảo về sự phát triển ban đầu của xã hội học Đức này sẽ chưa hoàn chỉnh nếu không nhắc tới những đóng góp giá trị của khoa văn hóa học Đức, lĩnh vực gọi là Geisteswissenschaften (các khoa học tinh thần)[5]. Nhìn chung, chúng ta có thể khẳng định rằng bất kỳ kết quả hữu ích nào mà xã hội học Đức đạt được, phần lớn đều là nhờ vào sự hợp tác của nó với các ngành khoa học khác. Khả năng diễn giải của những công trình nghiên cứu nhân văn Đức đã đạt tới một trình độ hoàn thiện rất cao.

Wilhelm Dilthey* 

Wilhelm Dilthey (1833-1911)*, người vừa có khả năng diễn giải, vừa có năng khiếu suy nghĩ có phương pháp về bản chất của thứ nghiên cứu nhân văn, đã chỉ ra rằng có một khác biệt cơ bản giữa hai loại khoa học – khoa học tự nhiên và khoa học văn hóa phi thực nghiệm. Trong khi chúng ta có thói quen chỉ gán sự chính xác cho các khoa học thực nghiệm và toán học, Dilthey lại nhấn mạnh rằng sự chính xác về mặt lượng mà tâm lý học và các khoa học nhân văn phần lớn không thể đạt tới, được bù đắp bằng sự kiện là chúng có thể hiểu sâu sắc và diễn giải đối tượng nghiên cứu đặc thù của mình là tinh thần con người. Ông phân biệt giữa giải thích (Erklärung) và thông hiểu (Verstehen). Mục đích của các khoa học chính xác là giải thích những sự kiện. Đối tượng của khoa học nhân văn là tinh thần con người. Khoa học tự nhiên quan tâm đến những sự kiện bên ngoài có thể tính toán được, còn khoa học nhân văn thì cố thâm nhập vào những hiện tượng bên trong của tinh thần con người, vốn quen thuộc với chúng ta theo một nghĩa khác với loại biến cố bên ngoài. Những biến cố bên ngoài, thứ chủ yếu cấu thành chủ đề của các khoa học tự nhiên, chỉ có thể được quan sát trong những quan hệ bên ngoài của chúng; mặt khác, những hiện tượng cấu thành chủ đề của các công trình nghiên cứu văn hóa, đồng thời cũng là những biểu hiện bên ngoài của tinh thần, có thể được quan sát và giải thích cũng như được thông hiểu. Khi nói «thông hiểu», trong phân biệt đối lập với «giải thích», tôi muốn nói trong bối cảnh này, hoặc cái khả năng nắm bắt ý nghĩa của một phát biểu hay một hành động hiệp thông – chẳng hạn như một tác phẩm nghệ thuật, văn học, âm nhạc, v. v. – , hoặc cái khả năng thâm nhập vào khía cạnh nội bộ và sự rối rắm, vướng víu bên trong của tinh thần con người. Giáo sư Morris Ginsberg (1889-1970)[6] đã đề xuất cụm từ «trực giác đồng cảm», nó thể hiện rất tốt ý nghĩa hiện đại của thuật từ Verstehen trong tiếng Đức. Trực giác đồng cảm chỉ cái khả năng tiếp cận và thâm nhập vào chủ thể trước mắt chúng ta; khoa học tự nhiên, dù chính xác đến đâu, cũng không tuyên bố đi xa hơn hiểu biết bên ngoài. Ví dụ, dữ liệu thống kê liên quan tới mức độ thường xuyên của những vụ tự sát theo từng mùa trong năm nhiều lắm chỉ có thể chỉ ra các biến thiên tương liên đáng chú ý giữa những biến cố; trong vài trường hợp, chúng có thể giúp chúng ta giải thích những sự kiện liên quan. Thế nhưng khi ta muốn tìm hiểu động lực bên trong đã dẫn đến bất kỳ một vụ tự tử nào trong số đó, thì đây lại là một vấn đề hoàn toàn khác. Thật thú vị khi quan sát thấy rằng, trong khi khoa tâm lý học Anglo-Saxon, đặc biệt là các nhánh của khoa học này ở Hoa Kỳ, có xu hướng thiên về cách tiếp cận của chủ thuyết hành vi, tức là bỏ qua khía cạnh bên trong của tâm lý và đặt dấu nhấn trên hành vi bên ngoài nhằm đơn giản hóa những hiện tượng được thảo luận, thì nhà xã hội học người Đức hàng đầu, Max Weber, lại nhấn mạnh rằng xã hội học là một khoa học về sự hiểu biết bên trong. Trong khi một đặc điểm của não trạng Anglo-Saxon là luôn luôn nỗ lực quy giản mọi hiện tượng vào những ngoại hiện rõ nét nhất của chúng, và quy giản những động lực đa tạp của hành động con người vào một vài yếu tố chung cơ bản nhất, nhằm cuối cùng có thể đặt chúng trên một cơ sở toán học chính xác, thì não trạng của người Đức lại có xu hướng thiên về  nỗ lực nghiên cứu bản chất phức tạp của hiện thực. Mặc dù đôi khi cách hình dung những sự kiện trong toàn bộ sự phức tạp của chúng có thể dẫn tới cảm tưởng mơ hồ, không ai phủ nhận rằng, khi bất kỳ một sự kiện riêng lẻ nào đã được tiến hành phân tích một cách tỷ mỷ, nỗ lực phân tích ấy có thể được nhận thấy là vô tận. Đặc biệt là khi chúng ta cố sức mô tả chính xác cuộc đời tâm lý của một cá nhân hiện đại trong bối cảnh xã hội anh ta đang sống, thì ta sẽ thấy ngay rằng nó có nhiều khía cạnh đến mức một diễn giải đầy đủ về chúng chỉ khả thi, nếu chúng ta có một trực giác phát triển sâu xa hơn, và một thuật ngữ tâm lý tinh tế hơn hiện nay rất nhiều.

Georg Simmel*

Georg Simmel (1858-1918)*, một trong những người báo trước quan trọng nhất của khoa xã hội học Đức gần đây, đã đạt được cả hai điều kiện này. Trong khi Dilthey là người đã phát triển lý thuyết về diễn giải và thông hiểu, Simmel lại biết cách áp dụng cái lý thuyết đó vào thực tiễn giỏi nhất. Ông là một trong các bậc thầy vĩ đại nhất về diễn giải những sự kiện xã hội. Để mô tả cuộc sống hàng ngày, ông đã dùng cùng một phương pháp như trước đây từng được sử dụng nhằm mô tả các hoạ phẩm hoặc tác phẩm văn học. Ông có năng khiếu mô tả những trải nghiệm hàng ngày đơn giản nhất, với cùng một độ chính xác như đặc trưng của một bức tranh ấn tượng đương đại, vốn đã học biết cách phản ánh các sắc thái và giá trị trước đây chưa từng được quan sát của không khí. Ông cũng có thể được gọi là «nhà ấn tượng» trong ngành xã hội học, bởi vì cái năng khiếu của ông không phải là thứ có khả năng kiến tạo một cảnh quan về toàn bộ xã hội, mà là thứ phân tích ý nghĩa của các nguồn lực xã hội nhỏ trước đây chưa hề được quan sát. Khi ông mô tả ý nghĩa xã hội của những cảm thức, ví dụ như cách liếc nhìn của người đời, hoặc tâm lý về địa vị của kẻ nghèo, hoặc các hình thức giao tiếp xã hội khác nhau, thì hàng nghìn quan hệ ẩn khuất tạo nên cuộc sống xã hội đột nhiên được tiết lộ. Khao khát sống của Simmel được thể hiện qua những đóng góp của ông cho ngành xã hội học Đức, và kể từ thời ông, các nhà xã hội học Đức đều tìm cách kết hợp sự khảo sát mọi lực lượng xây dựng nên đời sống xã hội với sự phân tích tinh tế những chi tiết nhỏ.

III – XÃ HỘI HỌC HỆ THỐNG

Bây giờ, nếu chúng ta tóm tắt những khuymh hướng tư tưởng xã hội này, cụ thể là khả năng tư duy xây dựng có từ thời Hegel; chủ nghĩa hiện thực chính trị bắt nguồn từ Marx và Lorenz von Stein; và khả năng trực quan và diễn giải đồng cảm tìm thấy trong các tác phẩm xã hội học của Dilthey và Simmel, ta có trước mắt mình thứ thiết bị tinh thần mà các nhà xã hội học Đúc hiện đại đã dùng để phân tích những trải nghiệm họ gặp trong thời đại của sự rệu rã và giải thể hiện nay. Điều tốt đẹp là, song song với sự triển khai và gia tăng của loại sự kiện chính trị nói trên, một thứ xã hội học có hệ thống cũng được phát triển đồng thời. Tên họ và trước tác của những Ferdinand Tönnies (1855-1936)*, Franz Oppenheimer (1864-1943)*, Leopold Von Wiese (1876-1969)*, Alfred Vierkandt (1867-1953)*[7], đều đã được biết tới, và đủ rõ để tránh quy chiếu thêm về những đóng góp của họ cho xã hội học. Ở đây, chúng ta chỉ cần chỉ ra rằng những gì Von Wieseđã nỗ lực thực hiện một cách trừu tượng và tổng quát nhất, cụ thể là tạo ra một «hệ thống» xã hội học phổ quát, Oppenheimer đã tìm cách hoàn thành nó theo kiểu thực tế hơn[8]. Cho dù thế hệ các nhà xã hội học hiện đại đánh giá công trình của các vị này cao đến đâu, người ta tin rằng, một khi đã đạt được các mục tiêu của xã hội học hệ thống, nhu cầu cấp thiết nhất của thời điểm này không phải là một hệ thống xã hội học khép kín do một cá nhân xây dựng, mà là sự quan sát chính xác các lực lượng xã hội đang tác động. Điều chúng ta cần không phải là một hệ thống phân loại trừu tượng, hoặc những suy nghĩ phương pháp luận về bản chất của xã hội học, mà là một phân tích cụ thể về những biến cố quá khứ và đương đại. Những phê phán Hans Freyer (1887-1969)[9] mà thế hệ các nhà xã hội học trẻ hơn đưa ra, chính xác là vì mặc dù đã đặt được xã hội học trên một nền tảng vững chắc vào bậc nhất, ông ta đã không lấp đầy nổi cái khung lý thuyết do ông dựng lên bằng thứ vật liệu thực nghiệm. 

Maximilien Weber

Người mà thế hệ trẻ có thể dựa vào sự nghiệp nghiên cứu một cách an toàn nhất là Max Weber (1864-1920)*[10], với cách đặt vấn đề và điều tra thực nghiệm đã trở thành điển hình. Ông không nghiên cứu quá khứ như nhà văn khố, kẻ có nhiệm vụ lưu trữ loại tài liệu cổ, kẻ chỉ nhìn thấy một gián đoạn lớn giữa «hôm qua và hôm nay»; ông nghiên cứu thứ quá khứ xa xôi nhất, ví dụ như tôn giáo ở Trung Quốc và Ấn Độ, hoặc hệ thống kinh tế của Rome, nhưng luôn luôn liên hệ tất cả những dữ liệu lịch sử này với hiện tại, và quan tâm nhất tới những điểm tương đồng và khác biệt giữa hoạt động của các lực lượng xã hội khi đó và hiện nay. Vấn đề lớn thu hút sự chú ý của cả Sombart lẫn Weber, cụ thể là sự trỗi dậy và phát triển của chủ nghĩa tư bản, đã được nghiên cúu nhằm đưa ra chẩn đoán cho tình hình đương đại. Nguồn gốc của xã hội phương Tây là gì; chúng ta đến từ đâu, sẽ đi đâu, và vị trí của ta trong cuộc khủng hoảng hiện nay là gì? Đấy là những câu hỏi ngầm trong các cuộc điều tra thực nghiệm của Max Weber. Ông là một trong những người đầu tiên nhìn thấy những nguy hiểm vốn có trong các khuynh hướng xã hội của chúng ta, và trong cuộc «khủng hoảng văn hóa» (Kulturkrise). Ông ý thức rằng vận mệnh của bất kỳ xã hội nào cũng đều phụ thuộc vào kết cấu tổ chức của nó, cũng như vào sự chuyển đổi và thích nghi của trí tuệ con người. Về điểm này, có điểm tương đồng giữa Max Weber và nhà xã hội học người Anh vĩ đại nhất, Leonard T. Hobhouse (1864-1929)[11], người cũng quan tâm đến việc theo dõi sự phát triển của trí tuệ và đạo đức con người. Nhưng trong khi tác giả sau thực hiện cuộc điều tra với một quan niệm về các giai đoạn phát triển tổng quát trong quá trình tiến hóa của con người, thì tác giả trước liên hệ mọi thay đổi nơi trí tuệ con người với những tình huống xã hội cụ thể. Weber đã chỉ cho ta thấy như vậy, là não trạng con người đã bị nhào nặn như thế nào trong các xã hội khác nhau, ở bất cứ nơi nào chế độ quan liêu đóng một vai trò to lớn, như tại Ai Cập cổ đại hay trong nhà nước Phổ chẳng hạn. Nếu Weber là kẻ chống chủ nghĩa xã hội, thì đấy là vì ông đã nhìn thấy trước sự xuất hiện không thể tránh khỏi của một chế độ quan liêu rộng lớn chưa từng có. Các hình thức tổ chức quyền lực khác nhau, và tầm quan trọng khác biệt gán cho các giai cấp khác nhau trong xã hội, là yếu tố quyết định thứ não trạng đặc biệt đã phân biệt các nhóm xã hội và các quốc gia. Để chứng minh cho khẳng định rằng thái độ tinh thần của một nhóm xã hội được quy định bởi đặc trưng giai cấp của nó, ông đã lấy vô số ví dụ từ mọi tôn giáo phương Đông và phương Tây. Trong tác phẩm súc tích – Kinh Tế và Xã Hội = Wirtschaft und Gesellschaft – của mình, ông chứng minh rằng các tôn giáo của nông dân, ở mọi thời đại và trong mọi xã hội, đều rất giống nhau. Họ thiên về cách giải thích cuộc đời dựa trên ma thuật và các giáo phái phóng đãng thông tục. Về cơ bản, văn hóa và quan điểm tinh thần của xã hội phong kiến khác với của xã hội kinh tế thủ công. Do đó, ta có thể giải thích những đặc trưng quan trọng nhất của Cơ đốc giáo buổi đầu, qua thực tế là nó đã được tạo lập và truyền bá bởi giới thợ thủ công công nhật. Tôn giáo của người trí thức khác với của các tầng lớp xã hội khác ở chỗ họ có xu hướng xem tôn giáo là một vấn đề thâm tâm và hoàn toàn riêng tư. Karl Marx đã chỉ ra rằng các lực lượng năng động vốn có trong xã hội, cũng như đặc tính của sự tăng trưởng kinh tế và sự chuyển đổi xã hội, đều do đấu tranh giai cấp gây ra. Trường phái xã hội học duy tâm gợi ý ngược lại, rằng Marx đã bỏ qua ý nghĩa của sự biến đổi nội tại trong tâm trí con người, cho đấy mới là điều kiện không thể thiếu của mọi thay đổi xã hội. Họ sử dụng quyển Đạo Nghĩa Tin lành và Tinh Thần của Chủ Nghĩa Tư Bản của Weber để hỗ trợ quan điểm của chủ nghĩa duy tâm, theo đó một thay đổi trong tính cách và quan điểm của cá nhân không thể nào là một hàm của sự thay đổi xã hội và kinh tế nói chung, vì tinh thần con người có cách phát triển đặc thù và tự chủ, hơn nữa bản thân nó còn là nguyên nhân của một hệ thống kinh tế mới và của sự chuyển đổi xã hội đi kèm. Nếu xem xét toàn bộ trước tác của Max Weber, chứ không chỉ riêng quyển sách vừa đề cập, thì chúng ta sẽ đi tới câu kết luận nay là quan điểm của thế hệ các nhà xã hội học trẻ người Đức, cụ thể là cái cách đặt vấn đề của những người theo các chủ nghĩa – cả duy vật lẫn duy tâm – đều là hoàn toàn sai. Chúng ta không thể tách rời các phạm vi của sự thay đổi kinh tế và xã hội sang một bên, phạm vi của sự thay đổi trong sự phát triển tinh thần sang bên kia. Nghệ thuật lớn hơn của nhà xã hội học bao gồm nỗ lực luôn luôn liên hệ những thay đổi trong thái độ tinh thần với những thay đổi trong các tình huống xã hội của ông. Tinh thần con người không hoạt động trong chân không; sự thay đổi tinh tế nhất trong tinh thần con người tương ứng với những thay đổi tinh tế tương tự trong hoàn cảnh mà một cá nhân hay một nhóm người đang gặp phải, và ngược lại, sự thay đổi nhỏ nhất trong hoàn cảnh cũng chỉ ra rằng con người, cả hắn nữa, cũng đã trải qua một thay đổi nào đấy.

Người ta nhận ra rằng loại hình triết học xưa hơn – tâm lý, sư phạm, kinh tế, luật học, lịch sử văn học, v.v. – đều liên tục mắc phải cùng một sai lầm. Tất cả đều bắt đầu từ một mô hình trừu tượng về «con người nói chung», thay vì quan sát người đời và đời sống tinh thần của họ trong bối cảnh xã hội hiện thực của họ. Ở đây, tôi có thể nói rằng, trong loạt bài giảng của mình, tôi đã nỗ lực thực hiện một nghiên cứu tâm lý phải có tính chất hoàn toàn xã hội học. Mục đích của nó là quan sát, ở quy mô nhỏ, hành vi của những cá nhân liên quan tới một số tình huống nhất định, và xác định xem hành vi ấy đã thay đổi như thế nào nhằm đáp ứng một thay đổi khiêm tốn nhất trong hoàn cảnh xã hội của họ. Hy vọng rằng qua đó, tôi có thể xây dựng – cho cả mục đích sư phạm lẫn nghiên cứu lịch sử – một kỹ thuật quan sát tình huống chính xác, rồi nhờ sự hỗ trợ của kỹ thuật này, cá nhân có thể được quan sát và nghiên cứu trong những tình huống cụ thể hiện rất phổ biến trong các cấu trúc xã hội khác nhau; và những tình huống này đang tạo ra hàng loạt loại hình cá nhân đặc trưng của kỷ nguyên mới. Mục đích là tìm ra, trong hệ thống xã hội kinh tế, cái điểm nơi đó con người kinh tế (homo oeconomicus) đôi khi thay đổi, và trong lĩnh vực chính trị, cái vị trí nơi đó một số nhân vật lãnh đạo xuất hiện và một số loại hình bản năng quần chúng được huy động. Thứ phương pháp mới cho một khoa tâm lý học hiện thực  này càng đáng được chào đón hơn, vì bộ môn tâm lý học về cuộc sống hàng ngày không phải là điểm mạnh của người Đức cho đến nay, do họ luôn luôn tỏ ra, hoặc quá trừu tượng, hoặc quá siêu hình, để nhận thấy những thay đổi ít rõ ràng nhất trong hành vi của những người họ tiếp xúc hàng ngày. Họ hiếm khi sản sinh ra mẫu «người thế gian lý tưởng (man of the world)» đập vào mắt như trong giới quý tộc Pháp và Anh. Điều này cũng được thấy hiển nhiên từ sự kiện là, cho đến gần đây, chất lượng của tiểu thuyết xã hội Đức vẫn chưa thể so sánh được với tiểu thuyết Pháp và Anh. Tuy nhiên, giờ đây, tất cả đều đã thay đổi. Những nỗ lực thành công đã được thực hiện nhằm dặc trưng hoá chính xác cuộc sống của những người làm công, của các cô gái trẻ trong việc làm, v. v...[12] Cùng một phương pháp quan sát tình huống chính xác các hiện tượng tinh thần không chỉ dẫn đến sự trở nên rất đáng ngờ của một khái niệm thống nhất siêu thời gian về trí tuệ vĩnh cửu của con người, mà còn dẫn tới sự thách thức cái ý niệm về tính bất biến của lô-gic con người nữa.

Xã hội học Tri thức (Wissenssoziologie)

Sự kiện đáng ngạc nhiên nhất trong sự phát triển gần đây của xã hội học có lẽ là cách mà ngành xã hội học tri thức mô tả sự khác biệt trong tư duy của con người giữa các nhóm xã hội khác nhau, tại các thời điểm khác biệt. Cũng giống như lịch sử nghệ thuật đã mô tả và phân biệt giữa các phong cách nghệ thuật khác nhau, xã hội học tri thức mô tả và phân biệt chính xác giữa các phong cách tư duy khác nhau. Những gì trường phái ở Pháp – Émile Durkheim (1858-1917)* và Lucien Levy-Bruhl (1857-1939)* – từng làm, bằng cách chỉ ra hệ thống lô-gic đặc trưng của các bộ lạc nguyên thủy, thì xã hội học tư duy Đức cũng bắt đầu làm cho các nhóm và thời kỳ khác nhau trong nền văn minh phương Tây. Những kết quả mà xã hội học tri thức đạt được gây bối rối, khi cuộc điều tra cho thấy rằng, trong một xã hội nhất định, không chỉ cách thức tư duy khác nhau giữa các nhóm xã hội, không chỉ tâm lý của các đảng phái chính trị khác nhau là khác biệt, mà những khác biệt này thậm chí còn thâm nhập vào cả lĩnh vực triết học và các ngành khoa học khác nhau nữa. Việc nhận ra sự kiện là nghiên cứu khoa học cũng bị ảnh hưởng bởi quan điểm xã hội và lịch sử của người nghiên cứu đã dẫn tới một nỗ lực tự phê bình thận trọng. Chúng ta đều biết rằng trong phần lý thuyết của tư tưởng Đức, hơn là trong phần tương đương của bất kỳ một quốc gia nào khác, Weltanschauung (diễn giải triết học về cuộc sống hay thế giới quan) đóng một vai trò quá sức quan trọng, và vì vậy, bản thân xã hội học tri thức xem như đã mang lại một cuộc thanh lọc lớn, hướng về một lý thuyết xã hội thuần túy rồi. Thế nhưng ngay cả khi ta đã xua đuổi được ảnh hưởng của Weltanschauung ra khỏi mọi khoa học xã hội, chúng ta vẫn sẽ tìm thấy những dấu vết quan trọng của thực tế là tư duy của ta phần lớn đều bị chi phối bởi địa vị xã hội của chúng ta, và lô-gic của ta là thứ lô-gic đặc thù chứ không phải là thứ phổ quát[13]. Chính vì vậy mà mỗi lý thuyết đều được hướng dẫn trước bởi một lựa chọn trong tiềm thức những yếu tố sẽ thâm nhập vào các vấn đề và lý thuyết của chúng ta. Nhưng không phải mọi yếu tố của hiện thực đều tìm được lối bước vào các lý thuyết được xây dựng một cách có ý thức của ta, mà chỉ những yếu tố nào được sự kiểm soát có ý thức chấp nhận. Nhắc lại một lần nữa, sự kiểm soát có ý thức ấy được hướng dẫn bởi những mong muốn và lực lượng tiềm ẩn. Theo cách này, không chỉ nội dung của bản thân các lý thuyết bị ảnh hưởng, mà ngay cả những quan niệm và phạm trù lô-gic của trí tuệ, từ các nhóm khác nhau, cũng bị ảnh hưởng bởi các lực lượng xã hội[14]. Tất cả có thể được làm sáng tỏ bằng một ví dụ. Mọi lý thuyết tự do đều đặt dấu nhấn trên tất cả các yếu tố có xu hướng cân bằng hài hòa những yếu tố mâu thuẫn, chẳng hạn. Ngược lại, các lý thuyết xã hội chủ nghĩa thì nhấn mạnh quá mức trên các lực lượng đang tác động nhằm lật đổ hệ thống kinh tế xã hội hiện tồn; do đó, chúng có xu hướng bỏ qua các yếu tố co giãn trong hệ thống này. Như vậy, sự đánh giá gần đây về tầm quan trọng của các lực lượng xã hội ấy – và sự đánh giá này, đến một mức độ nhất định, ảnh hưởng tới mọi ngành khoa học – đang đặt, một mặt, nhận thức luận (theory of knowledge) như một ngành học mới, và mặt khác, những nhiệm vụ mới cần phải được giải quyết trong quá trình truy tìm tính khách quan, lên một bình diện cao hơn. Công lao của các nhà xã hội học Đức gần đây có lẽ nằm ở chỗ họ đã tự giải thoát mình khỏi thứ «chủ nghĩa khổ hạnh» về phương pháp quá đáng – theo đó chỉ những gì có thể đo lường được mới có thể được xem là chính xác, và hơn nữa, họ đã chứng minh thành công rằng lĩnh vực tinh thần có các tiêu chuẩn chính xác riêng biệt cho đến nay vẫn chưa được chú ý.

Xã hội học Văn hóa (Kultursoziologie)

Vì nhánh xã hội học Đức này có thể là đặc biệt hữu ích cho những người tiếp cận loại vấn đề xã hội học từ các khoa học tinh thần, nên ở giai đoạn này cần phải nói đôi điều về xã hội học văn hóa. Xã hội học văn hóa đã sử dụng mọi phương pháp và kỹ thuật mà các khoa học văn hóa từng xây dựng dưới dạng thức kỹ thuật diễn giải, đặc biệt nổi bật trong số đó là phương pháp hình thái học. Alfred Weber (1868-1958)[15], người đứng đầu trường phái Heidelberg, đã sử dụng phương pháp này trong tác phẩm Xã Hội Học Văn Hóa của ông. Các nội dung văn hóa có thể được mô tả theo hình thức trên với độ chính xác rất cao; bằng chứng là những nhận thức đạt được bằng phương pháp phân tích phong cách trong lịch sử nghệ thuật chẳng hạn. Đối với tôi, sự mô tả hình thái học về các mô hình và phong cách văn hóa này có vẻ hoản toàn hiệu quả, miễn là hình thái học không được xem là mục đích tự thân hoặc, như ở Oswald Spengler (1880-1936)*, không thoái hóa thành một thứ trò chơi với những loại suy. Để xác định các đặc điểm hình thái của chúng, một nền văn hóa hay các nền văn hóa cũng phải được giải thích dưới ánh sáng của bối cảnh xã hội của chúng. Phân tích hình thái là một phương tiện giúp phân tích nhân quả hữu hiệu và phong phú hơn, nhưng không phải là con đường thoát ly chủ nghĩa kinh nghiệm lịch sử. Alfred von Martin (1882-1979)[16] đã có những đóng góp giá trị cho ngành xã hội học văn hóa có thể kiểm chứng được bằng kinh nghiệm. Ông thuộc nhóm các sử gia có đủ năng động để mạo hiểm từ chuyên ngành của mình sang lĩnh vực xã hội học. Trong số những tác phẩm về xã hội học văn học, các đóng góp của Herbert Schöffler (1888-1946)[17] chiếm một vị trí cao về tầm quan trọng. Đến với xã hội học từ triết học Anh, ông đã chỉ ra, giữa nhiều điều khác, là tính khí của một thời đại có thể được giải thích thông qua một phân tích về nguồn gốc xã hội của cá nhân các nhà thơ từ tầng lớp trí thức thống trị như thế nào. Thế hệ đầu tiên của các nhà thơ lãng mạn Anh và Đức đều xuất thân từ giới giáo sĩ, và thái độ của họ trước cuộc đời, môi trường xã hội của họ, biểu thị đặc điểm của trước tác của họ.

Nhìn chung, vấn đề nghiên cứu sự tiến hóa lịch sử của các hình thức sống (Lebensformen) và các loại hình trải nghiệm nội tâm (Erlebnisformen) ngày càng trở thành vấn đề thiết lập quan hệ mật thiết giữa lịch sử văn học, xã hội học và triết học. Quan niệm năng động về con người, tức là cái ý tưởng rằng sự tiến hóa lịch sử và xã hội luôn luôn định hình lại cá nhân và đời sống tinh thần của hắn ta, đã tạo điều kiện cho sự nghiên cứu lịch sử các khía cạnh khác nhau của đời sống tinh thần. Nhờ vậy chúng ta mới có được những phân tích thú vị về nguồn gốc của tình yêu[18], về ý nghĩa của sự sùng bái tình bạn[19], về sự phát triển và ý nghĩa xã hội của các lý tưởng về văn minh[20], về gốc gác của quan niệm về thiên tài[21], về sự phát sinh của công luận[22], về sự hình thành của giai cấp tư sản[23] trong xã hội, v. v...

Xã hội học Luật pháp, Xã hội học Chính trị, Xã hội học Văn học

Nhưng xã hội học Đức không chỉ rút được những kích thích từ lịch sử văn học. Xã hội học luật pháp đã đạt tới một trình độ phát triển rất cao, mặc dù điều thú vị phải quan sát ở đây là, ngoại trừ Max Weber, hầu hết những tác giả quan trọng trong lĩnh vực này lúc đầu đều là người Áo[24].

Bên cạnh xã hội học luật pháp, một khoa xã hội học chính trị, và một khoa nghiên cứu về những biến cố đương đại (Gegenwartskunde) cũng đang hình thành, đặc biệt là nơi thế hệ trẻ hơn, và được rất nhiều người trông đợi[25]. Nó có quan hệ gần gũi với khoa chính trị học Anh, chưa nói là liên hệ chặt chẽ với xã hội học chắc chắn cũng đã không gây bất lợi cho nó. Nhờ liên hệ mật thiết này với xã hội học, nói chung các hiện tượng chính trị đều được nhận xét trong tương quan của chúng với những biến cố xã hội. Điểm khởi đầu ở đây là một nỗ lực phân tích xã hội học về sự phân tầng của xã hội Đức, và Theodor Julius Geiger (1891-1952)[26] đã thực hiện một công trình lý thú về vấn đề này. Một lịch sử các đảng phái chính trị cũng đã được thực hiện theo cùng chiều hướng ấy[27]

Như vậy, nhiều phân tích cụ thể và hiện thực về các khía cạnh thuần túy xã hội của xã hội Đức hiện đại đã được thực hiện cùng một lúc. Và tính hiệu quả của cái hình thức chính trị của xã hội này đã được đặt dưới ánh sáng tìm tòi của cuộc tranh luận lý thuyết, trong khi nội dung cơ bản của nó và những gì nó bao hàm cũng được thảo luận dưới góc nhìn và theo quan điểm xã hội học mới[28]

Trong chiều hướng này, chúng ta cũng cần lưu ý tới những đóng góp rất bổ ích của Emil Lederer (1882-1939) và Jacob Marschak (1898-1977), Carl Brinkmann (1885-1954) và Gotz Briefs (1889-1974)[29] về sự phân tầng xã hội trong xã hội tư bản. Chúng ta cũng phải tham khảo nhiều đóng góp xã hội học từ ngòi bút của các tác giả  Ki-tô giáo, và đặc biệt là các tác phẩm của Gustav Gundlach (1892-1963), Wilhelm Schwer (1876-1949?), và Paul Jostock (1895-1965).

Những đóng góp bổ ích nhất của văn học cho hiểu biết về xã hội có thể được tìm thấy trong nhiều quyển tiểu thuyết đề cập tới đời sống xã hội được xuất bản ở Đức sau chiến tranh. Những tác giả và tác phẩm sau đây phải được nhắc đến, đặc biệt là: Hans Fallada (1893-1947), Kleiner Mann, was nun? = Little Man, What Now?; Erik Reger (1893-1954), Union der Festen Hand; Alfred Döblin (1878-1957), Berlin Alexanderplatz; Ernst von Salomon (1902-1972), Die Geächteten = The Outlaws, Die Stadt = It Cannot Be Stormed.     

IV – ĐỐI CHIẾU CÁC NỀN XÃ HỘI HỌC MỸ, ANH, ĐỨC

Tôi muốn kết thúc bài nghiên cứu này bằng nỗ lực thử đưa ra những lý do xã hội học cho sự khác biệt giữa các nền xã hội học Mỹ, Anh và Đức[30].

Xã hội học Hoa Kỳ

Đặc trưng của xã hội học Hoa Kỳ là sự hứng thú đặc biệt của nó đối với một hình thức của chủ nghĩa kinh nghiệm mà tôi có xu hướng gọi là «chủ nghĩa kinh nghiệm cô lập hoá»; bởi vì ở đây, trong khi sự liệt kê và mô tả những sự kiện ngày càng trở nên chính xác và tinh tế hơn, thì sự xây dựng các cơ sở của đời sống xã hội lại hoàn toàn bị che khuất đằng sau khối lượng loại chi tiết thứ cấp. Dường như điều này chỉ có thể được quy cho sự kiện là, đối với sự phát triển của nghiên cứu xã hội học ở Hoa Kỳ, các động lực cấp thiết nhất đều phát sinh từ những vấn đề cấp bách của cuộc sống hàng ngày hiện diện trong bất kỳ xã hội thực dân nào phải bao trùm một lãnh thổ rộng lớn, và phải phát triển các thể chế xã hội của mình trong một khoảng thời gian tương đối ngắn. Trong một xã hội như vậy, những vấn đề khó khăn và quan trọng nhất xuất hiện từng cái một, và nghiên cứu xã hội tập trung vào việc giải quyết những vấn đề biệt lập này. Ở đây chúng ta có một giải thích cho sự phổ biến trong xã hội học Mỹ của các vấn đề như băng đảng, tội phạm, xung đột giữa các chủng tộc khác nhau sống trong cùng một khu vực lãnh thổ, sự điều chỉnh tâm lý của người nhập cư, tất cả đều là những vấn đề phát sinh từ những nhu cầu cụ thể tại những thời điểm cụ thể. Thế nhưng, như đã chỉ ra ở trên, những hiện tượng trở nên không rõ ràng là: tổng thể xã hội, các lực lượng năng động trong toàn xã hội, và các vấn đề giai cấp tồn tại trong xã hội. Tổng thể xã hội bị che khuất vì niềm tin chung rằng, nếu những khó khăn của các thiết chế đơn lẻ, và các tình huống cụ thể được giải quyết một cách đúng đắn, toàn bộ xã hội sẽ tự bộc lộ thông qua quá trình tích hợp các giải pháp của những khó khăn xã hội riêng biệt. Một tin tưởng như vậy có thể tồn tại, khi nào vẫn còn có những vùng lãnh thổ rộng lớn chưa được khai thác, và nhiều khả năng còn chưa được khám phá; trong trường hợp này, luôn luôn có thể tìm ra cách thoát khỏi những tình huống xã hội lưỡng nan. Bản chất phụ thuộc vào nhau của những cách biệt trong cấu trúc xã hội không trở nên rõ ràng, bởi vì sự co giãn của phạm vi hành động là quá lớn, đến mức trong hầu hết các trường hợp, người ta đều tìm ra cách thoát khỏi những khó khăn. Biểu hiện của vấn đề giai cấp – như chúng ta sẽ còn có dịp quan sát lại sau rất thường phụ thuộc vào vị trí cụ thể của giới trí thức trong xã hội. Vì chính giới trí thức đưa ra biểu đạt lý thuyết cho vấn đề giai cấp, nên phần lớn đặc điểm của thứ lý thuyết họ đưa ra sẽ phụ thuộc vào sự kiện họ có kinh nghiệm về xung đột giai cấp hay không trong cuộc đấu tranh sinh tồn của chính họ. Ở Hoa Kỳ, vấn đề giai cấp trong một thời gian dài không trở nên đáng quan tâm, vì giới tinh hoa xã hội và các nhóm trí thức có cơ hội vươn lên thông qua sáng kiến cá nhân; ở bất cứ nơi nào, khi sự thăng tiến trên bậc thang xã hội là khả thi chỉ dựa trên sáng kiến cá nhân thôi, thì sự tồn tại của các giai cấp xã hội và bản chất của chúng sẽ là không rõ ràng.

Xã hội học Đức

Tình hình của Anh và Đức quốc tương tự nhau ở chỗ, trong cả hai trường hợp, một xã hội đã trải qua một quá trình lịch sử lâu dài bên trong cùng những ranh giới lãnh thổ. Nhưng trong khi sự phát triển của người Anh, đặc biệt kể từ năm 1688, mang tính tiến hóa và cải cách, thì sự phát triển của người Đức lại khó khăn và gập ghềnh hơn; đặc biệt lịch sử nước Đức gần đây là một trong các cuộc chấn động lịch sử. Bản chất của lần biến đổi nhanh chóng đang diễn ra hiện nay là sự giải thể của những hình thức xã hội cũ. Như tôi đã chỉ ra trước đây, sở dĩ chúng ta có được cái nhìn sâu sắc quan trọng nhất về hoạt động của những lực lượng xã hội trong các giai đoạn tan rã xã hội nhanh chóng, như cái nước Đức hiện đang trải qua hiện nay, đấy là vì các yếu tố tiềm ẩn hoạt động trong xã hội chỉ được phát lộ chính vào những thời điểm như vậy. Vấn đề giai cấp không chỉ là dễ nhận thức đối với những người theo chủ nghĩa xã hội ở Đức, mà còn cả đối với mọi nhóm trí thức Đức nữa, bởi vì trong những năm gần đây, các nhóm người này ngày càng nhận thức được rằng thân phận của họ bị gắn chặt vào số phận của các nhóm sát bên cạnh. Không thể nào khắc phục được những khiếm khuyết của cá nhân bằng các biện pháp cải cách đơn thuần trong một xã hội, khi ở đấy không một yếu tố xã hội nào có thể được quan niệm độc lập với bất kỳ một yếu tố nào khác, do sự chật hẹp của phạm vi hành động. Chính vì vậy nên mọi nhóm xã hội và chính trị đều đang đấu tranh để biến đổi toàn bộ cấu trúc xã hội; và mỗi nhóm đều mang ý định chỉ chuyển biến  nó theo mô hình lý tưởng riêng của mình mà thôi. Bởi vì tất cả đều mong muốn thay đổi toàn thể bộ mặt của xã hội, cho nên họ buộc phải tập trung tức thì trên toàn bộ cơ thể xã hội, chứ không chỉ trên các bộ phận riêng biệt của cơ thể đó.

Xã hội học Anh

Bây giờ hãy chuyển sang xã hội học Anh. Sự phát triển của xã hội học Anh, cũng như bản chất của xã hội học Anh nói chung, phản ánh xu hướng đều đều của sự phát triển xã hội và lịch sử Anh gần đây. Đây là ví dụ về một ngành học có thể triển khai trong một xã hội mà sự phát triển là: một mặt, liên tục và không bị những cú sốc và các bất ngờ vốn là đặc trưng của lịch sử mới đây của Đức; và mặt khác, cũng không phát triển bằng những bước nhảy vọt ngẫu nhiên như xã hội Mỹ, nơi các thiết chế mới thường được bổ sung vào những cái đã tồn tại, và xã hội học không triển khai các vấn đề của mình bằng cách diễn giải lại quan điểm truyền thống, mà tiếp cận chúng một cách ngây thơ như thể nó đang phải đối mặt với một nhiệm vụ hoàn toàn mới. Bởi vì sự phát triển của xã hội Anh diễn ra liên tục hơn, và vì sự tiến hóa tiệm tiến của nó chủ yếu là cải tổ và phục hồi những thiểt chế cũ, nên thứ quan niệm về sự tiến bộ cơ bản như một chuỗi phát triển đều đặn của nhiều giai đoạn liên tiếp là điều có thể. Như vậy, trong một thời gian dài, khoa xã hội học Anh là thích hợp với khuôn mẫu của quan niệm «tiến bộ qua nhiều giai đoạn». Ngược lại, quan niệm về sự tiến bộ của các nhà xã hội học Đức là quan niệm biện chứng; nó thể hiện kinh nghiệm nguyên thủy của con người, rằng lịch sử là một quá trình xen kẽ giữa tiến bộ, thoái bộ, và tiến bộ. Xã hội học Anh có mọi lợi thế của một sự phát triển truyền thống. Hệ quả đầu tiên của sự phát triển xã hội liên tục là khoa học hàn lâm có thể theo đuổi tiến trình chung đều đặn theo cách của nó, và các vấn đề riêng lẻ có thể được triển khai và giải quyết với độ chính xác chi li. Nếu các vấn đề mới nảy sinh bất kỳ ở đâu, chúng có thể được đưa vào khuôn khổ hiện có của các khoa học hàn lâm khác nhau. Do đó, đặc trưng của tư tưởng xã hội học Anh là nó không chỉ được tìm thấy trong xã hội học như xã hội học, mà còn trong các nhánh khoa học cụ thể khác nhau nữa. Phần tốt nhất của xã hội học thường được tìm thấy trong các lĩnh vực hàn lâm như nhân học, lịch sử xã hội và kinh tế, tâm lý học xã hội, khoa học chính trị và các khoa học xã hội khác với xã hội học. Điều này có lợi thế là phần lớn xã hội học nằm rải rác trong các nhánh tri thức hàn lâm khác nhau; nhưng nó cũng có cái bất lợi là một quan điểm bao trùm toàn bộ lĩnh vực xã hội học chỉ có thể đạt được một cách khó khăn, và không có chuyên gia nào trong bất kỳ khoa học nào được đề cập ở trên sẽ mạo hiểm đưa ra các nguyên tắc xây dựng để tích hợp những kết quả đạt được của từng khoa học ấy. Bất kỳ lúc nào, mỗi khi chuyên gia phản bác rằng các liên hệ giữa những sự kiện anh ta đặc biệt quan tâm và những sự kiện khác được nêu ra cho anh vượt quá thẩm quyền cá biệt của mình, thì khi làm như vậy, anh ta đã quên rằng trong hiện thực, những sự kiện và nhân tố khác nhau đều được lồng vào nhau, và chúng không cho phép chuyên gia làm việc như trong các ngăn kín nước. Nếu nhìn vào toàn bộ lịch sử phát triển xã hội, chúng ta có thể nói rằng động lực để xem xét các sự kiện trong quan hệ giữa chúng với nhau, chứ không phải riêng lẻ, chưa bao giờ là do tự thân khoa học, mà là do nhu cầu và sự cấp bách thực tế của đời sống xã hội gây ra. Những xung lực này chỉ thâm nhập dần dần vào khuôn khổ của các bộ phận khác nhau trong xã hội học Anh, và vấn đề giai cấp vốn đã thống trị xã hội Đức trong các thời điểm khủng hoảng như tôi đã chỉ ra, không chiếm hàng đầu trong xã hội học Anh. Tuy nhiên, theo quan điểm của tôi, còn có một lý do khác nữa. Như tôi cũng đã chỉ ra, giới trí thức gần như luôn luôn là những người đầu tiên nhìn thấy và lên tiếng về sự tồn tại của những vấn đề trên, dưới ánh sáng kinh nghiệm của bản thân họ. Ở Anh, họ không có kinh nghiệm về cấu trúc giai cấp trong một thời gian rất dài, vì xã hội Anh luôn luôn có năng khiếu quý giá là hấp thụ được những thành phần tài năng nhất từ các tầng lớp bên dưới. Như vậy, khi nào sự hấp thụ này còn tiếp tục, thì bản chất giai cấp của xã hội và tất cả những gì nó bao hàm sẽ còn được cảm nhận như một thứ gì đó dao động và không có thực chất.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhu cầu lấy một cái nhìn kết nối về những sự kiện xã hội riêng biệt cũng đã được nhận thức ở Anh. Xã hội học Đức đã đi trước các nền xã hội học anh em của nó ở chỗ nó bị cuộc khủng hoảng xả hội buộc phải chú ý tới các vấn đề sớm muộn gì rồi cũng sẽ làm rung chuyển phần còn lại của thế giới; và vì là nền xã hội học đầu tiên quan tâm đến những vấn đề này, xã hội học Đức đã thiết kế nên các phương pháp nhằm quan sát và diễn giải những tình huống phức tạp tổng quát hữu quan. Sự quan tâm đến tương quan hàm biến giữa các bộ phận riêng biệt của cơ thể xã hội đang dần dần được chứng tỏ ở Anh, và trong chiều hướng này, cả vấn đề giai cấp nữa cũng bắt đầu được xem xét nghiêm túc, và ý nghĩa của nó trong quan hệ với những thiết chế và nghề nghiệp, trước đây chỉ được ám chỉ, nay đang ngày càng được chú ý nhiều hơn. Quan tâm mới về các chủ đề gần gũi với những vấn đề vẫn được xã hội học Đức gần đây chú ý này khiến cho sự trao đổi ý tưởng, và sự so sánh các phương pháp và kinh nghiệm giữa hai bên trở nên dễ dàng hơn. Như vậy, sự tương đồng ngày càng tăng nhanh về những vấn đề xã hội cơ bản mà các quốc gia khác nhau phải đương đầu cũng được phản ánh nhiều và tốt hơn trong sự xích lại gần nhau giữa các xu hướng tư duy xã hội học theo đuổi ở các quốc gia này.

Karl Mannheim,
(Essays on Sociology and Social Psychology,
London: Routledge & Kegan Paul, 1953), tr. 20-28).


[1] Karl Mannheim (Károly Manheim, 1893-1947): nhà xã hội học Đức gốc Hung, một trong những người sáng lập ra ngành xã hội học tri thức, di cư sang Anh năm 1933 và dạy xã hội học tại đây cho đến khi mất. Tác phẩm chính: Die Strukturanalyse der Erkenntnistheorie (1922); Konservatismus (1925, 1984);  Ideologie und Utopie (1929) = Ideology and Utopia (1936); Sociology as Political Education (1930, 2001); Die Gegenwartsaufgaben der Soziologie (1932);  Mensch und Gesellschaft im Zeitalter des Umbaus (1935) = Man and Society in an Age of Reconstruction (1940); Diagnosis of our Time (1943) = deutsch (1951); Freedom, Power, and Democratic Planning (1951) = deutsch (1970); Wissenssoziologie (1964); From Karl Mannheim  (1971, 1993); Strukturen des Denkens (1980) = Structures of Thinking (1980); Soziologie der Intellektuellen (2022). NVK

[2] Quy chiếu về chế độ chính trị đã tồn tại ở Đức từ ngày 9-11-1918 đến ngày 29-3-1933 và được gọi là Weimarer Republik. Có thể xem thêm về nền Cộng Hoà Weimar này bằng tiếng Việt trên Wikipedia. NVK                                                                        

[3] Lorenz von Stein (1815-1890): nhà kinh tế và xã hội học người Đức, từng là cố vấn cho chính quyền Nhật thời Minh Trị, có ảnh hưởng tới việc soạn thảo Hiến Pháp của Đế Chế Nhật. Tác phẩm: Der Sozialismus und Kommunismus des heutigen Frankreich, (1842, 1847); Französische Staats – und - Rechtsgeschichte (3 q, 1846-1848); Geschichte des französischen Strafrechts (1847); Die sozialistischen und kommunistischen Bewegungen seit der dritten französischen Revolution (1848); Geschichte der sozialen Bewegung in Frankreich von 1789 bis auf unsere Tage (3 q, 1850); System der Staatswissenschaft (2 q, 1852-1857); Die neue Gestaltung der Geld- und Kreditverhältnisse in Österreichklñjo (1855); .Lehrbuch der Volkswirtschaft (1858); Verwaltungslehre (8 q, 1865-1884); Handbuch der Verwaltungslehre (3 q, 1870, 1889); Die Lehre vom Heerwesen (1872); Lehrbuch der Finanzwissenschaft (4 q, 1885-1886); Lehrbuch der Nationalökonomie (1887). NVK

[4] Về cuộc đời, sự nghiệp và tác phẩm của Max Weber (1864-1920), Ernst Troeltsch (1865-1923), Werner Sombart (1863-1941), Max Scheler (1874-1928) xem trên Wikipedia. NVK

[5] Xem trên trang mục Triết Lý Các Khoa Học khi có thể tham khảo: Wilhelm Dilthey, Khoa Học Tự Nhiên & Khoa Học Tinh Thần và Raymond Aron, Ý Niệm Tập Hợp Và Các Khoa Học Tinh Thần. NVK

[6] Morris Gínberg, «Reccnt tendencies in German Sociology», Economica (2-1933). KM. Morris Ginsberg (1889=1970): nhà xã hội học Anh, chủ tịch The Aristotelian Society (1942-1943), chủ tịch The British Sociological Association (1955–1957). Tác phẩm chính: The Psychology of Society (1920); Studies in Sociology (1932); Sociology (1934); On the Diversity of Morals (....), Reason and Unreason in Society (1947); Evolution and Progress (1956). NVK

[7] Về cuộc đời, sự nghiệp và tác phẩm của Ferdinand Tönnies (1855-1936), Franz Oppenheimer (1864-1943), Leopold von Wiese (1876-1969), Alfred Vierkandt (1867-1953), xem trên Wikipedia. NVK

[8] Cf. Leopold Von Wiese (Howard Becker, adapt.), Systematic Sociology on the Basis of "Beziehungslehre"; Theodore Abel, Systematic Sociology in Germany; Franz Oppenheimer, The State (Der Staat).

[9] Hans Freyer, Soziologie als Wirklichkeitswissenschaft, 1930.

[10] Tham khảo đặc biệt: Max Weber, Wirtschaft & Gesellschaft, in lần 2, 1935; Gesammelte Aufsätze zur Soziologie und Sozialpolitik; Gesammelte Aufsätze zur Wissenschaftslehre, 1922; Gesammelte Aufsätze zur Religionssoziologie, 1920; Gesammelte Politische Schriften, 1921. Trong quan hệ với Max Weber, phải quy chiếu cả tới Ernst Troeltsch, The Social Teaching of the Christian Churches, bản dịch của O. Wyon, 1931.

[11]  Leonard Trelawny Hobhouse (1864-1929): nhà xã hội học và lý thuyết gia chính trị người Anh. Tác phẩm: The Labour Movement (1893); Theory of Knowledge (1896); Mind in Evolution (1901); Democracy and Reaction (1905); Morals in Evolution (2 q., 1906);  Liberalism (1911); Social Evolution and Political Theory (1911); Development and Purpose (1913); The Material Culture and Social Institutions of the Simpler Peoples (1915, 1930); Questions Of War And Peace (1916); The Metaphysical Theory of the State (1918); The Rational Good (1921); The Elements of Social Justice (1922); Social Development (1924); Sociology and Philosophy (1966). NVK

[12] Lisbeth Franzen-Hellersberg, Die jugendliche Arbeiterin, 1932; Siegfried Kracauer, Die Angestellten, 1930; Hans Speier, Die Angestellten (ấn bản tiếng Anh trong Social Order and the Risks of War (New York: Stewart, 1952, tr. 68-85).

[13] Từ lô-gic ở đây không chỉ lô-gic như khoa học hình thức, mà như một não trạng (mentalité). Vào năm 1953, có vẻ như K. Mannheim còn chịu ảnh hưởng của Lucien Lévy-Bruhl, người đã xây dựng cả một học thuyết về não trạng “tiền lô-gic (prélogique)” phổ biến trong các xã hội sơ khai “tiền” ở đây không phải là trước mà là khác hẳn  với “não trạng lý tính” trong các xã hội  hiện đại – để rồi cuối cùng phải tự khai tử nó sau năm 1935. Về cuộc tranh luận này, xem các bài hữu quan trên trang mục Nhân Học & Dân Tộc Học khi có thể tham khảo. NVK

[14] Các độc giả tìm thông tin tổng quát về xã hội học tri thức có thể tham khảo: Max Scheler, Die Wissensformen und die Gesellschaft; Karl Mannheim,  "Wissenssoziologie" trg: Handwörterbuch der Soziologie. Về các nghiên cứu thực nghiệm trong lĩnh vực này, xem: Gyorgy Lukacs, Geschichte und Klassenbewusstsein, 1923; Max Scheler, Die Formen des Wissens und der Bildung, 1925; Paul-Louis Landsberg, Wesen und Bedeutung der Platonischen Akademie, 1923; Paul Honigsheim, Zur Soziologie der mittelalterlichen Scholastik (Erinnerungsgabe für M. Weber), 1923; K. Mannheim, "Das konservative Denken" trg: Archiv für Sozialwissenschaft, Bd. 57; Ideologie und Utopie, xb lần 2, 1930 (Ideology and Utopia); Franz Borkenau, Der Ubergang vom feudalen zum bürgerlichen Weltbild (Paris: Alcan, 1934).

[15] Alfred Weber, Ideen zur Staats und Kultursoziologie. Và "Das Alte Aegypten und Babylonien",  trg: Archiv für Sozialwissenschaft 55 (1926).

[16] Alfred von Martin, Die Soziologie der Renaissance; xem thêm các tiểu luận về xã hội học văn hoá trg Handwörterbuch der Soziologie (Alfred Vierkandt chủ biên, 1931)

[17] Herbert Schöffler, Protestantismus und Literatur, 1922.

[18] Paul Kluckhohn, Die Auffassung der Liebe in der Literatur des 18ten Jahrhunderts und in der deutschen Romantik, tái bản lần 2, 1931.

[19] Albert Salomon, Der humanistische Freundschaftskult (chưa xuất bản).

[20] Hans Weil, Die Entstehung des deutschen Bildungsprinzips, 1930; Hans Naumann & Günter Müller, Höfische Kultur, 1930; Norbert Elias, Soziologie des Hofes (chưa xuất bản).

[21] Edgar Zilsel, Die Entstehung des Geniebegriffs, 1926.

[22] Ferdinand Tönnies, Kritik der öffentlichen Meinung, 1922, và Ernst Manheim, Die Träger der öffentlichen Meinung, 1933.

[23] Bernhard Groethuysen, Die Entstehung der bürgerlichen Welt und Lebensanschauung in Frankreich 1-2, 1927-30; Bernhard Guttmann, England im Zeitalter der bürgerlichen Reform, 1923. Trong lịch sử văn học, một thử nghiệm đầy tham vọng đã được thực hiện nhằm đưa ra một đánh giá xã hội học về món nợ của nền văn học Đức đối với ảnh hưởng của các bộ lạc và tỉnh thành Đức. Cf. Josef Nadler, Literaturgeschichte der deutschen Stämme und Landschaften. Về xã hội học văn học, cf. Hans Kohn-Bramstedt, "Probleme der Literatursoziologie", trg Neuen Jahrbüchern für Wissenschaft und Jugendbildung, 1931.

[24] Eugen Ehrlich, Grundlegung der Soziologie des Rechts, 1913; Karl Renner, Die Rechtsinstitute des Privatrechts und ihre soziale Funktion, 1929; Anton Menger, Das bürgerliche Recht und die besitzenden Volksklassen, in lần thứ 5, 1927; Anton Menger, Neue Staatslehre, in lần thứ 4, 1930; Hugo Sinzheimer, Grundzüge des Arbeitsrechts, in lần thứ 2; Franz Neumann, Koalitionsfreiheit und Reichsverfassung; 1932; Friedrich Dessauer, Recht, Richtertum und Ministerialbürokratie, 1928.

[25] Nhiều tiểu luận quan trọng trong lĩnh vực này đã xuất hiện trong các tạp chí xã hội học: Kölner Vierteljahrshefte für Soziologie (Leopold von Wiese chủ biên); Soziologus (Richard Thurnwald chủ biên); Archiv für Sozialwissenschaft und Sozialpolitik (Emil Lederer chủ biên, đã đình bản mới đây); Zeitschrift für Sozialforschung (Max Horkheimer chủ biên). Cho quan điểm xã hội chủ nghĩa: Die GesellschaftNeue Blatter für Sozialismus (với các bài của Edouard Heimann, Adolf Löwe, Paul Tillich).

[26] Theodor Geiger, Die soziale Schichtung des deutschen Volkes, 1932. Cf. also, Josef Nothaas, Sozialer Auf-und Abstieg im Deutschen Volk, 1930; Otto Heinrich von der Gablentz & Carl Mennicke, Deutsche Berufskunde, 1930; Karl Demeter, Das Offizierskorps in Gesellschaft und Staat, 1650-1945; Eckart Kehr, Die preussischen Konservativen, 1930.

[27] Sigmund Neumann, Die Deutschen Parteien: Wesen und Wandel nach dem Kriege, 1932.

[28] Đặc biệt đáng quan tâm là cuộc tranh luận về nhà nước và quốc gia. Ngoài các tác phẩm nổi tiếng của Carl Schmitt, Hans Kelsen, và Hermann Heller (vừa qua đời), xem: Rudolf Smend, Verfassung und Verfassungsrecht, 1928; Hermann Heller, Die Souveranität, 1927 & Staatslehre (chưa xuất bản); Dietrich Schindler, Verfassungsrecht und Soziale Struktur, 1932; Gottfried Salomon, Allgemeine Staatslehre; Probleme der Demokratie, 1928-31 và Politik als Wissenschaft, 1931, do Deutsche Hochschule fur Politik xuất bản; Max Hildebert Boehm, Das eigenständige Volk, 1932; Heinz Otto Ziegler, Die moderne Nation, 1931; H. Marr, "Grosstadt als politische Lebensform", trg Grosstadt und Volkstum, 1927.

[29] Trg :  Grundriss der Sozialökonomik,  vol. 9, I (Die Gesellsschaftliche Schichtung im Kapitalismus)

[30] Tất nhiên, ở đây, tôi tự biết chỉ có thể đưa ra một phác thảo sơ lược nhất về một so sánh như vậy. Trong phân tích trên, chúng ta đã không quên a) rằng xã hội học không chỉ phát sinh từ hoàn cảnh xã hội học của một quốc gia cụ thể ; b) rằng bản thân lịch sử tư tưởng cũng đưa ảnh hưởng của nó từ tác giả này sang tác giả khác, từ quốc gia này sang quốc gia khác. Nhưng theo quan điểm của tôi – và điều này có thể được chứng minh bởi bất kỳ một phân tích đủ chính xác nào về ảnh hưởng của nền văn học một nước lên văn học của một nước khác thì trong quá trình tìm hiểu và đồng hóa trên, những nhân tố và yếu tố nào là không quan trọng đối với mục đích và quan điểm riêng của quốc gia tiếp thu các ảnh hưởng ngoại lai sẽ bị vất bỏ, ngược lại, dấu nhấn sẽ được đặt trên những nhân tố xuất phát từ các hoàn cảnh và thái độ tương tự như của quốc gia tiếp thu.

CHUYÊN TRANG CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU Nguyễn Văn Khoa