CHÂN DUNG TRIẾT GIA (PLATŌN, tk IV tCn)

CN : 15-8-2022
Từ khóa : Triết gia (Khái niệm) – Hy Lạp  tk IV tCn ;
Platōn – Trích đoạn

C1

 CHÂN DUNG TRIẾT GIA

Tác giả: Platōn
Bản tiếng Anh: Benjamin Jowett
Bản tiếng Pháp: Victor Cousin
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa

§

1 - KẺ KHÔNG NHÌN THẤY CÁI TRƯỚC MẮT (khg 369 tCn)

Thật ra, chân dung triết gia ở đây chỉ là một thành kiến. Chỉ đoạn thứ nhì của câu cuối mới có thể phần nào được xem là thuộc quan tâm của triết gia.

*

SŌKRATĒS: Được […]. Tôi sẽ mô tả các triết gia hàng đầu trước, bởi nói về những kẻ không tài năng mà cũng chẳng thành công thì ích lợi gì? Từ tấm bé, triết gia đích thực không biết (173d) con đường nào dẫn đến Quảng trường [Agora]*, không biết Tòa án [Heliaia]*, nhà họp Hội đồng [Bouleutērion]*, và những nơi tập hợp khác của thành quốc ở đâu. Ông ta chưa hề nhìn thấy hay nghe tới những luật lệ và sắc luật, cách thức chúng được đề xuất, bàn cãi, công bố. Ông không mơ nghĩ cả đến việc tham gia vào các tổ chức, những cơ hội tranh thủ chức quyền – hội họp, tiệc tùng, vui chơi ca hát đàn sáo. Vận tốt hay xấu nào xảy đến cho thành quốc, những tì vết nào do tổ tiên nam hay nữ truyền lại cho ai, triết gia ta không hề quan tâm, (173e) cũng như ông không màng tìm hiểu nước biển có thể đổ đầy bao nhiêu thùng chứa, nói như trong thành ngữ. Và bản thân ông ta cũng không biết rằng mình chẳng hay biết chi về bao điều ấy, bởi vì nếu ông không tham gia vào các sinh hoạt trên, lý do không xuất phát từ thói ham muốn hư vinh, mà thật ra là vì chỉ có thân xác của triết gia ngụ và sống trong thành quốc thôi. Còn tư tưởng của ông ta, vì xem tất cả những trò ấy như cỏ rác và hư vô, thì bay bổng khắp đó đây để, nói như Pindaros*, «dò dẫm độ sâu của vực thẳm, đo lường chiều rộng của mặt đất, vút lên tận mây xanh ngắm các thiên thể  du hành, cật vấn toàn bộ và chi li bản chất sâu kín của mỗi loại vật thể trong vũ trụ», (174a) song lại không thèm hạ mình để mắt xuống cái gì nằm ngay trong tầm với.

THEODŌROS*: Ý ông là sao, Sōkratēs? Nói rõ hơn một chút đi.

SŌKRATĒS: Được thôi Theodōros. Để tôi minh họa nó bằng chuyện này. Người ta kể rằng Thalēs*, vì mải nhìn sao trên trời nên rơi xuống giếng, một nữ tì nhanh trí và dí dỏm người Thrakē* đã bỡn cợt ông, rằng ông háo hức muốn biết những gì xảy ra trên trời, song lại không trông thấy được cái đang ở ngay trước mắt. Lời giễu này có thể đem áp dụng cho mọi triết gia[1]. Thực vậy, chẳng những không biết người hàng xóm của mình đang làm gì, thậm chí ông ta còn không biết y là một con người hay một con vật nữa kia; nhưng con người là gì, và đặc trưng nào phân biệt hắn với những loài vật khác, về hành động hay đam mê, đấy mới là điều khiến ông ta trăn trở tìm hiểu. Bây giờ ông hiểu ý tôi rồi chứ, Theodōros?

Theaetetus* (173c-174b).

§

2 - KẺ CẦU TÌM CHÂN LÝ (giữa 399-390 tCn)

«Khi (Vua) Leon xứ Phleious hỏi Pythagoras* ông là gì, Pythagoras so sánh sinh hoạt của người đời với các màn vận động ở Olympia*, và nói rằng có những người đến đây để dự các môn thi, có người đến để mở cửa hàng, người khác đến để xem. Triết gia là loại người đến để xem cho biết. Lối sống của người đời cũng giống như thế: kẻ vì của cải, lợi lộc; kẻ khác vì chiến thắng, danh vọng; trong khi triết gia chỉ yêu hiểu biết, chân lý»[2]. Triết gia là người yêu-hiểu biết vậy (philosophos).

Cả cuộc đời của Sōkratēs là một minh họa sống động cho định nghĩa trên. Khi biết được câu thần dụ ở đền Delphoi*, rằng Sōkratēs là kẻ hiểu biết nhất, Ông đã dành cả phần đời còn lại để tìm hiểu ý nghĩa của câu thần dụ và biết sự thật.

*

a – Một danh nghĩa cần kiểm chứng

Ở đây nữa, thưa quý công dân Athenai, xin đừng lao nhao ngắt lời tôi, nếu quý vị thấy rằng tôi nói về mình quá đỗi tự phụ; bởi vì những lời tôi sắp nói ra đây không xuất phát từ tôi mà từ một quyền uy đáng cho quý vị tin cậy hơn nhiều. Để xác nhận sự hiểu biết của Sōkratēs, tôi xin dẫn chứng lời phán của vị Thần[3] ở đền Delphoi[4], Ngài sẽ nói cho quý vị biết tôi có phải là người hiểu biết chăng, và kiến thức ấy là gì. Trong cử tọa chắc là ai cũng biết Chairephōn,  (21a) bạn từ thời thơ ấu của tôi, đồng thời là một công dân tốt, kẻ đã cùng đi đày và cùng hồi hương với quý vị[1]. Biết rõ Chairephōn, quý vị còn lạ gì nhiệt tình mà ông ta đặt vào mọi việc. Một hôm, khi ghé viếng đền Delphoi, Chairephōn bỗng đánh bạo thỉnh ý Thần xem trên đời này còn có người hiểu biết hơn Sōkratēs chăng – đến đây, một lần nữa tôi lại phải xin quý vị chớ xì xào khó chịu khi nghe tôi nói –, để được nghe vị đồng cô[5] ở đền trả lời rằng không có ai cả. Về lời đáp này, dù Chairephōn nay không còn nữa, em ruột của ông ta[6] có thể xác nhận với quý vị ngay tại đây.

(21b) Thưa quý công dân Athenai, bây giờ hãy xét xem vì sao nay tôi lại kể chuyện ấy ra ở đây – chỉ vì tôi muốn quý vị nhìn thấy bao lời ong tiếng ve mà người ta đồn thổi cho Sōkratēs bắt nguồn từ đâu. Khi biết câu trả lời của Thần, tôi chợt thắc mắc: thần dụ này muốn nói chi, mang ẩn nghĩa[7] gì? Bởi vì tôi thừa biết rằng mình chẳng mảy may có chút tri thức nào, dù là nhỏ mọn hay to tát. Vậy thì Thần muốn nói gì, khi phán rằng Sōkratēs là kẻ hiểu biết nhất? Chắc chắn là Ngài không thể nói dối; dối trá là điều hoàn toàn trái ngược với bản chất của thần thánh. Hoang mang tột độ về ý nghĩa của lời phán như thế khá lâu, sau bao lần do dự, cuối cùng tôi đành quyết định phải tự tìm hiểu ý Thần. Trộm nghĩ nếu tìm được một người giàu tri thức hơn mình, lúc ấy tôi có thể thưa lại với Thần: «Đây là người thông thái hơn tôi, thế mà Ngài lại dạy rằng tôi là người hiểu biết nhất!»

b – Cuộc truy tìm người hiểu biết

(21c) Tôi bèn đến viếng một công dân vẫn được xem là thuộc thành phần có nhiều tri thức sâu rộng nhất thành quốc, hy vọng rằng ở đây hơn bất cứ nơi nào khác, tôi sẽ có cơ may kiểm chứng phán dụ trên. Tôi đã khảo sát cặn kẽ nhân vật này xin miễn nêu tên, chỉ cần nói rõ rằng đấy là một trong những chính trị gia lớn nhất của ta[8] , và từ cuộc đàm luận với ông ấy, tôi rút ra kết luận rằng vị này đã gây được ấn tượng thông thái trước mắt nhiều người, nhất là trước mắt chính mình, song sự thực là y chẳng có chút hiểu biết nào. Khám phá trên khiến tôi cố gắng chứng minh cho ông ta thấy rằng y không hề có những hiểu biết mà y tưởng mình có. (21d) Hậu quả là tôi chỉ chuốc lấy sự thù ghét của ông ta và đám bạn ông đã tham dự cuộc đàm thoại của chúng tôi mà thôi. Khi ra về, tôi không khỏi tự nghĩ mình hiểu biết[9] hơn vị này. Có thể đúng là cả ông ta lẫn tôi đều không biết gì đáng kể về cái đẹp, điều tốt thực sự[10], song trong khi y tưởng mình biết mặc dù chẳng biết chi, thì tôi tuy không biết chi cũng không hề tưởng là mình biết. Như thế, ít nhất về điểm này, dường như tôi hiểu biết[11] hơn: tôi không tưởng là biết điều tôi không biết. Sau đó, tôi lại viếng một nhân vật khác, còn được xem là thông thái hơn cả vị trước; (21e) tôi đi đến cùng một kết luận, và ở đấy tôi cũng lại tự chuốc lấy oán hận của ông ta và rất nhiều bạn hữu chung quanh.

Tuy vậy, tôi vẫn không nản chí chút nào. Tôi hoàn toàn cảm nhận được sự thù ghét mà mình đã vô tình tích lũy, song dù buồn rầu, thậm chí đôi khi kinh hoảng nữa, tôi tin rằng mình phải đặt việc tìm hiểu ý nghĩa lời Thần phán lên trên tất cả[12]. Sōkratēs lại ghé hết nhà này đến nhà khác, cố tìm gặp bằng được những người được tiếng thông thái hay tỏ vẻ có vốn liếng tri thức. (22a) Và xin Lang Tinh chứng giám[13], tôi xin thề, bởi vì tôi phải khai thực với quý vị, đây là kết luận tôi đã rút ra từ cuộc thăm dò: trừ vài ngoại lệ hiếm hoi, kẻ được tiếng là thông thái nhất rốt cuộc lại thiếu hiểu biết hơn ai hết, trong khi kẻ bị xem là thấp kém hơn dường như lại hiểu biết[14] hơn. Dù sao, cũng xin tường thuật cùng quý vị mọi chi tiết trong cuộc bôn ba truy tìm đáng gọi là kỳ công Herakles[15] này của Sōkratēs để tự thuyết phục rằng lời phán của Thần là không thể sai.

Sau giới chính khách, tôi tìm đến giới cầm bút, từ kẻ viết kịch, làm thơ đến các loại tác gia khác, (22b) hoàn toàn không nghi ngờ rằng ở đây sự dốt nát của tôi sẽ hiển hiện lộ liễu trước tri thức ưu đẳng của họ. Cầm trong tay những tác phẩm có vẻ đã được tạo tác công phu nhất của họ, tôi hỏi họ thực sự muốn nói gì, hy vọng qua đó được chỉ giáo thêm. Thưa quý đồng hương, thật là xấu hổ phải nói lên sự thực, tuy rằng dù sao cũng phải khai thật với quý vị mà thôi. Trong tất cả những người có mặt ở cuộc trò chuyện, hầu hết đều có thể bàn về văn thơ của các vị ấy hay hơn cả chính tác giả. Tôi mau chóng nhận ra rằng (22c) giới văn thi sĩ đã sáng tạo được không phải nhờ tri thức, mà nhờ một thứ năng khiếu tự nhiên hay cảm hứng thiên phú giống như ở các nhà tiên tri hay thầy bói; các vị này có thể tiết lộ bao điều thật đáng khâm phục tuy chẳng có hiểu biết gì về chúng. Nhà văn, nhà thơ dường như cũng ở trong một trạng thái tương tự[16]; đồng thời tôi cũng nhận thấy rằng họ còn tưởng mình thông thái hơn thiên hạ trên mọi vấn đề khác nhờ thứ năng khiếu đặc biệt ấy, thật ra thì họ chẳng hiểu biết gì hơn ai. Tôi bèn giã từ giới này, tin chắc rằng dù sao mình cũng còn hơn họ, vì cùng một lý lẽ như đối với các chính khách.

Sau cùng, tôi tìm đến giới thủ công[17]. (22d) Tự thấy mình chẳng biết gì về loại nghệ thuật này, tôi tin chắc sẽ gặp ở đây rất nhiều nghệ nhân có những bí quyết đáng khâm phục. Và về điểm này thì tôi không nhầm chút nào: họ biết rất nhiều chuyện mà tôi không biết, và dưới khía cạnh này thì đúng là họ thông thái hơn Sōkratēs rất nhiều. Tuy nhiên, thưa quý vị, ngay cả kẻ khéo léo nhất ở đây cũng mắc phải cùng một sai lầm như giới văn thi sĩ; vì xuất sắc hơn kẻ khác về kỹ thuật nghề nghiệp, anh nào cũng yên trí rằng mình phải có nhiều tri thức hơn thiên hạ về bao chuyện quan trọng khác, đến nỗi sự tự phụ điên khùng đó che lấp cả tài năng của họ. (22e) Rốt cuộc, liên tưởng đến lời phán của Thần, rồi tự vấn hoặc nên giữ mình như bây giờ, nghĩa là không có cả những điều họ biết lẫn những điều họ không biết, hoặc nên vừa có phần kỹ xảo lẫn phần ngu dốt của họ, tôi đã tự trả lời với mình và với Thần rằng tôi muốn giữ mình như hiện thời hơn.

c – Sự oán ghét và hận thù của kẻ bị khảo hạch

Thưa quý công dân Athenai, chính những cuộc điều tra này đã khơi dậy bao oán ghét cay độc và đáng sợ đối với tôi, (23a) và cũng chính từ căm thù mà những điều vu khống đổ lên đầu Sōkratēs. Đồng thời, cũng chính nhờ chúng mà tôi lại được tiếng hiểu biết, bởi vì tất cả những ai đã từng nghe tôi đều tưởng rằng tôi biết hết mọi chuyện về những gì tôi chứng minh là người khác không biết. Nhưng thưa quý vị, thật sự chỉ có vị Thần ở đền Delphoi mới thông thái, và Ngài chỉ muốn dạy qua lời phán rằng tri thức của con người chưa đi đến đâu cả, thậm chí không là gì hết; và hiển nhiên ở đây đâu phải Ngài nói về cá nhân tôi mà chỉ dùng tên tôi như một thí dụ, (23b) như thể đang nói với tất cả mọi người: «Hỡi con người, kẻ thông thái nhất trong số các anh sẽ là ai tự biết rằng kiến thức của mình không là gì cả, như Sōkratēs vậy»[18]. Tuy vững tin như thế, song để chắc chắn hơn nữa, đồng thời vâng lời Thần, tôi luôn tiếp tục cuộc tìm kiếm, hết khảo sát công dân thành quốc này đến kẻ ngoại thành kia, bất kỳ ai được tiếng hay có vẻ thông thái, hy vọng một ngày kia sẽ tìm thấy ở họ sự hiểu biết đích thực. Và khi không tìm ra, tôi làm kẻ diễn giải phán dụ của Thần, chứng minh cho từng người thấy rằng họ không thông thái như họ tưởng. Việc ấy đã chiếm hết thời giờ, khiến tôi không còn đủ rảnh rỗi để lo việc thành quốc (23c) hay gia đình; thế nên tôi đành cam sống trong cảnh cực kỳ túng quẫn, với mục đích duy nhất là tận tụy phục vụ lời Thần[19].

Sōkratēs Tự Biện Vu
Apology of Socrates (20e-23c).

§

3 - KẺ YÊU HIỂU BIẾT, YÊU SỰ THẬT (khg 380 tCn)

Triết gia là người «yêu hiểu biết». Nhưng thế nào là người yêu hiểu biết?

*

SŌKRATĒS : Vậy thì, kẻ nào đảo mắt nhìn qua vô số sự vật đẹp đẽ nhưng vẫn không thấy nổi cái đẹp tuyệt đối, mà cũng chẳng theo nổi người muốn nâng mình lên tới tầm ngắm nghĩ này, kẻ nào nhìn thấy vô số chuyện công chính nhưng vẫn không thấy nổi bản thân công lý là gì, và còn bao nhiêu kẻ khác nữa trong bao nhiêu trường hợp tương tự…  thì ta phải nói sao về họ nhỉ? Ta sẽ nói rằng mọi phán đoán của họ đều chỉ là những ý kiến chứ không phải là tri thức, đúng không?

GLAUKŌN : Đảm bảo.

SŌKRATĒS : Nhưng những người nhìn thấy cái tuyệt đối, cái vĩnh hằng, cái  bất biến… thì ta có thể nói là họ có tri thức chứ không chỉ có ý kiến, phải không?

GLAUKŌN : Cũng chắc chắn như vậy.

SŌKRATĒS : Và có phải chúng ta cũng đã nói về cả hai loại người này, rằng họ đều có sự gắn bó, có lòng yêu, một bên với những sự vật là đối tượng của khoa học, và bên kia với những thứ là đối tượng của ý kiến? Ta còn so sánh loại người sau với những kẻ tai vẫn nghe các âm thanh du dương, mắt vẫn chăm chăm nhìn các sắc màu đẹp đẽ, nhưng đầu thì cứ luôn luôn phủ quyết cái đẹp tuyệt đối, không bao giờ chịu nhìn nhận sự tồn tại của nó như hiện thực. Cậu còn nhớ chứ?

GLAUKŌN : Có, tôi vẫn nhớ.

SŌKRATĒS : Như vậy, chúng ta đâu có bất công, vì đã gọi họ một cách «không chính đáng» là những người yêu ý kiến[20] chứ không phải là người y&

CHUYÊN TRANG CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU Nguyễn Văn Khoa