«CON NGƯỜI LÀ SINH VẬT DUY NHẤT CẦN GIÁO DỤC» (I. KANT, 1803)

CN : 15-6-2025
Từ khóa : Giáo dục - Triết lý – Kant (Immanuel), Trích đoạn

C1

«CON NGƯỜI LÀ SINH VẬT DUY NHẤT CẦN GIÁO DỤC» :
NHỮNG Ý TƯỞNG VỀ GIÁO DỤC CỦA KANT
(1803)

Tác giả : Immanuel Kant
Bản tiếng Anh : Annette Churton
Bản tiếng Pháp : Jules Barni
Người dịch : Nguyễn Văn Khoa

*

Trong phần tư cuối của thế kỷ XVIII, Đại học Königsberg đưa giáo dục vào chương trình dạy, và yêu cầu các giáo sư triết học của Trường luân phiên đảm nhận việc thuyết giảng về môn học. Kant đã dạy khóa học này trong bốn học kỳ (mùa đông 1776, mùa hè 1780, mùa đông 1783, mùa đông 1786). Từ năm 1780, theo thông lệ đương thời, Kant sử dụng quyển sách của đồng nghiệp cũ, Friedrich Samuel Bock (Lehrbuch der Erziehungskunst zum Gebrauch fur christliche Eltern und kunftige Jugendlehrer  = Textbook on the Art of Education for the Use of Christian Parents and Future Youth Teachers, 1780), như tài liệu hướng dẫn, cùng với những trang ghi chú rời của ông, để giảng dạy.

Vào cuối đời, Kant đã trao những ghi chú về Địa lý Tự nhiên và Giáo dục, dưới hình thức tờ rời, cho một đồng nghiệp trẻ là Friedrich Theodor Rink (1770-1811), để xuất bản. Physische Geographie ra đời năm 1802, Über Pädagogik năm 1803, Kant mất năm 1804. Không may, những trang rời gốc về giáo dục trao cho Rink đều bị thất lạc sau đó, để lại nhiều dấu hỏi... Điều chắc chắn là : nếu về nội dung, quyển sách do Rink xuất bản phản ánh những ý tưởng của Kant như ta có thể biết qua các nguồn tư liệu khác và chẳng có gì là của Bock cả ; thì về hình thức, nó không được tổ chức tốt, có nhiều đoạn lặp lại, và qua Dẫn Nhập này, người đọc khó có thể tránh cái cảm tưởng là vẫn chỉ đang đọc những ý tưởng và trang rời của Kant hơn là một chuyên luận có cấu trúc chặt chẽ. Điều đáng lưu ý nữa là, 3 trên 6 đoạn ngắn trong Lời Tựa Của Người Xuất Bản, đặt ở đầu quyển sách, đã được Rink dùng để tự bênh vực trước những phê phán tiêu cực nhận được sau khi quyển Physische Geographie ra đời. Ông đã đoán trước rằng đấy cũng sẽ là số phận đang chờ đợi Über Pädagogik chăng?

Dù sao, để giảm bớt gánh nặng trên vai Rink, phải nói rằng lời Kant căn dặn ông ta «hãy từ chúng chọn ra những gì là hữu ích nhất cho công chúng» —dường như xác nhận là ngay chính Kant cũng không hề nghĩ rằng các bài thuyết giảng, cũng như những tờ ghi chú của ông, đã có thể là một lý thuyết giáo dục mạch lạc, đầy đủ. Liệu ta sẽ tìm thấy ở các chương tiếp theo của Über Pädagogik một chuyên luận đúng nghĩa hơn ở phần dẫn nhập chăng? Xin để lại cho quý độc giả nào quan tâm đến triết lý giáo dục của Kant việc tìm giải đáp, và đặt nó trong quan hệ so sánh với một số tác phẩm hữu quan nổi tiếng đương thời khác, như Some Thoughts Concerning Education của John Locke (1693) và nhất là Émile của Jean-Jacques Rousseau (1762).

Bản tiếng Việt này chỉ dịch phần Dẫn Nhập (chương 1) của Über Pädagogik, cộng thêm bốn đoạn đầu của chương 2, không phải từ nguyên bản tiếng Đức, mà từ bản Anh ngữ của Annette Churton, Thoughts On Education (1899), có đối chiếu với bản tiếng Pháp của Jules Barni, Traité de Pédagogie (1886). Tuy nhiên, khi gặp khó khăn trong việc dịch vì có điểm bất đồng trong hai ngôn ngữ trên, chúng tôi đôi khi ghi lại từ hay cụm từ gốc bên cạnh. Vì phần giới thiệu không có tựa riêng, chúng tôi đã lấy câu mở đầu của Kant làm tựa, đồng thời để độc giả dễ theo dõi hơn, thêm vào các phân đoạn trong bản dịch một số tiểu tựa không có trong nguyên bản.

Bản tiếng Việt này chắc chắn còn không ít sai sót. Hãy chỉ xem nó như lời mời đọc tác phẩm mẹ, có thể được tải xuống từ Internet bằng nhiều ngôn ngữ. Kính mời.

Nguyễn Văn Khoa

XXX

1 - BỐN THÀNH PHẦN CỦA QUY TRÌNH GIÁO DỤC

Con người là sinh vật duy nhất cần được giáo dục. Về nội dung, ta phải hiểu giáo dục là: chăm nuôi (săn sóc và nuôi dưỡng), rèn luyện kỷ luật, dạy học và văn hoá. Theo đó, con người lần lượt là trẻ sơ sinh (cần bú mớm), trẻ em (cần kỷ luật) và học trò (cần được dạy học).

Chăm nuôi [Wartung, nurture, soins]

Động vật sử dụng năng lực của chúng, ngay khi có được, theo một quy trình đều đặn — nghĩa là theo một cách không gây hại cho bản thân chúng. Ví dụ, điều thực sự đáng kinh ngạc là chim én non, khi mới nở và còn mù, đã biết cẩn thận không làm ô uế tổ của chúng. Vì vậy, con người cần chăm nuôi, trong khi động vật không cần — nhiều nhất chúng chỉ cần thức ăn, hơi ấm và sự hướng dẫn, hoặc một hình thức bảo vệ nào đấy. Đúng là hầu hết các loài động vật đều cần được cho ăn, nhưng chúng không đòi hỏi được săn sóc. Vì qua từ chăm nuôi, chúng tôi muốn nói sự săn sóc và quan tâm dịu dàng mà cha mẹ phải dành cho con cái của mình, hầu ngăn cản chúng sử dụng năng lực của chúng theo những cách có hại cho bản thân. Ví dụ, nếu một con vật kêu lên khi mới sinh ra, kiểu như trẻ con khóc, chắc chắn nó sẽ trở thành con mồi cho lang sói và các động vật hoang dã khác, bởi chúng sẽ bị thu hút bởi tiếng kêu của nó và tụ tập xung quanh.

Kỷ luật [Disciplin (Zucht)]

Kỷ luật thay đổi bản chất động vật thành bản chất người. Nhờ bản năng, động vật là tất cả những gì chúng có thể trở thành; một lý do nào đấy đã cung cấp cho chúng mọi thứ ngay từ đầu. Nhưng con người cần sử dụng lý trí của mình. Không có bản năng, hắn phải vạch ra một kế hoạch ứng xử cho bản thân. Tuy nhiên, vì hắn không thể làm tất cả cùng một lúc, và ra đời trong tình trạng thiếu trang bị và kém phát trỉển, nên người khác phải làm việc này cho hắn.

Mọi năng khiếu và tâm thế bẩm sinh [Naturanlagen, natural gifts, dispositions naturelles] của con người phải được phát triển từng chút một từ bên trong bản thân, thông qua nỗ lực của chính hắn. Một thế hệ giáo dục thế hệ kế tiếp. Ta có thể tìm sự bắt đầu của quá trình giáo dục này hoặc ở một trạng thái hoang sơ, hoặc ở một trạng thái đã phát triển đầy đủ của con người. Nếu cho rằng cái sau là bước đầu thì con người hẳn đã phải thoái hóa và rơi vào tình trạng mọi rợ sau đó.

Chính kỷ luật đã ngăn cản con người bị gạt ra ngoài con đường đạt tới mục đích tiền định là nhân loại [Menschheit] bởi những xung động thú tính của mình. Chẳng hạn, kỷ luật khiến hắn phải tự kiềm chế, không dại dột và liều lĩnh lao vào nguy hiểm. Như vậy, kỷ luật chỉ mang tính tiêu cực, hành động của nó chỉ là phản ứng lại tính hoang đàng [Wildheit, unruliness, sauvagerie] tự nhiên của con người. Phần tích cực của giáo dục là việc dạy học.

Tính hoang đàng bao gồm sự độc lập với pháp luật. Kỷ luật buộc người đời phải tuân thủ luật pháp do con người làm ra, đồng thời cảm nhận được sự ép buộc của chúng. Tuy nhiên, kỷ luật và sự bó buộc của nó phải được thực hiện sớm. Chẳng hạn, trẻ em được đưa tới trường, trước hết không phải để học một môn gì đó, mà để chúng quen dần với việc phải ngồi yên, và làm chính xác những điều được bảo. Với mục đích cuối cùng là để, trong cuộc sống sau này, chúng không còn ý muốn cứ làm, thực sự và tức thì, bất cứ ý tưởng nào nảy sinh trong đầu.

Tình yêu tự do nơi con người mạnh mẽ một cách tự nhiên, đến mức một khi đã quen thuộc với nó, hắn sẽ hy sinh tất cả vì tự do. Chính vì lý do này mà kỷ luật phải tác động rất sớm, vì nếu nó không nhập cuộc ngay, thì sẽ khó mà thay đổi tính nết của kẻ vô kỷ luật trong cuộc sống sau đó; anh ta sẽ bốc đồng làm mọi trò hoang tưởng. Chúng ta cũng thấy điều này ở các giống dân man rợ. Mặc dù họ có thể thực hiện nhiều sinh hoạt giống như người Âu châu trong một thời gian, nhưng họ không bao giờ có thể quen thuộc với cách hành xử của người châu Âu. Tuy nhiên, nơi họ, đây không phải là biểu hiện của tình yêu tự do cao quý như Rousseau và nhiều người khác tưởng tượng, mà là một biểu hiện của sự hoang dại xuất phát từ tình trạng nhân tính chưa hoàn toàn thoát khỏi những điều kiện sống động vật. Do đó, con người phải sớm tập cho mình thói quen tuân theo các mệnh lệnh của lý trí, vì nếu một người được phép làm theo ý muốn của mình mà không gặp một phản ứng nào từ khi còn trẻ, thì một sự vô phép tắc nào đó sẽ bám chặt đương sự suốt đời. Và chẳng có lợi gì cho một người khi còn trẻ đã được sự dịu dàng quá mức của bà mẹ bỏ qua mọi sai trái như vậy, bởi vì sau này y sẽ phải đối mặt với những phản kháng từ mọi phía, và sẽ liên tục gặp thất bại ngay khi vừa bước vào đời.

Một sai lầm thường thấy trong việc giáo dục những kẻ có địa vị cao, là họ phải không bao giờ gặp một hành động kháng cự thực sự nào thời trẻ cả, dưới lý cớ rằng số mệnh của họ là sẽ trở thành nhà lãnh đạo sau này! Ở con người, chính vì bản tính yêu tự do mà sự thô bạo tự nhiên của hắn cần được xoa dịu; ở loài vật, điều này là không cần thiết vì chúng đã có bản năng.

Dạy học và Văn hoá

Con người cần sự chăm sóc và văn hoá [Bildung, culture]. Văn hoá bao gồm kỷ luật và việc dạy học [Unterweisung, instruction]. Như chúng ta biết cho đến nay, không loài vật nào cần thứ sau này, bởi vì không con vật nào học điều gì từ những đồng loại lớn hơn, trừ ở loài chim khi chúng học tiếng hót của loài. Thật vậy, chim con được cha mẹ chúng dạy hót; và thật là xúc động khi chứng kiến cảnh tượng chim mẹ hót hết hơi cho đám chim non đứng xung quanh nghe như trẻ con ở trường, và cố phát ra những âm thanh tương tự từ cổ họng nhỏ bé của chúng. Để tự thuyết phục rằng chim không hót theo bản năng, mà thực ra chúng được dạy hót, ta có thể làm một thí nghiệm. Giả sử chúng ta đánh tráo một nửa số trứng của chim hoàng yến bằng trứng chim sẻ, hoặc bỏ chim sẻ non vào cùng một tổ với chim hoàng yến non; sau đó, nếu ta đưa cả tổ chim vào một căn phòng, nơi chim sẻ non không còn nghe được tiếng sẻ bên ngoài nữa, chúng sẽ học tiếng hót của chim hoàng yến, và như vậy ta sẽ có được những con chim sẻ biết hót như chim hoàng yến. Điều thật sự tuyệt vời là mỗi loài chim đều có tiếng hót đặc trưng, và nó được bảo tồn không thay đổi qua mọi thế hệ. Tiếng hót, như vậy, có lẽ là thứ truyền thống kiên trung nhất trên thế giới.

2 - CON NGƯỜI VÀ GIÁO DỤC

Con người chỉ có thể thành người thông qua giáo dục [Erziehung, education]. Hắn chỉ là thứ gì do giáo dục tạo nên. Điều đáng lưu ý là con người chỉ có thể được giáo dục bởi con người — nghĩa là bởi những người đã được giáo dục. Do đó, ở một số người, chính sự thiếu kỷ luật và thiếu học nơi họ đã khiến họ thành những nhà giáo không đủ tư cách dạy học trò của mình. Nếu một số sinh vật nào đó có bản chất cao hơn con người đảm trách việc giáo dục chúng ta, lúc đó ta mới có thể thấy con người có thể trở thành thứ gì. Tuy nhiên, vì giáo dục, một mặt, dạy người đời học một số điều gì đó, và mặt khác, chỉ phát triển một số thiên hướng sẵn có khác [Naturanlagen] nơi họ, thật khó có thể thẩm định chính xác những năng khiếu và tâm thế tự nhiên của con người có thể vươn tới đâu. Nếu ta có thể làm một thí nghiệm về vấn đề này, với sự trợ giúp của những kẻ có địa vị cao, và nhờ vào sự hợp lực của nhiều nhà hảo tâm, thì ít ra chúng ta cũng có thể thông qua đó thu thập được một số thông tin về mức độ xuất sắc mà con người có thể đạt tới. Nhưng điều đáng suy nghĩ cho những ai có đầu óc, cũng như đáng buồn cho những ai yêu thương đồng loại, là cứ phải nhìn thấy hầu hết mọi kẻ có địa vị cao sang thường chỉ quan tâm đến việc riêng của họ, và không hề tham gia vào các thí nghiệm giáo dục quan trọng nhằm nâng bản chất con người của chúng ta lên một nấc gần sự hoàn hảo hơn.

Không ai từng bị bỏ mặc khi còn trẻ, mà đến tuổi lớn khôn lại không biết khiếm khuyết của mình nằm ở khâu nào, kỷ luật hoặc văn hóa (chúng ta có thể gọi sự dạy học bằng từ này). Người thiếu văn hóa thì thô lậu, kẻ thiếu kỷ luật thì hoang đàng. Thiếu kỷ luật là điều còn tệ hại hơn là thiếu văn hóa nữa, vì sự thô lậu còn có thể khắc phục được sau này trong cuộc sống, chứ sự hoang đàng thì không thể xóa bỏ, và một sự thiếu hụt kỷ luật sẽ không bao giờ có thể sửa chữa được. Có thể là giáo dục sẽ liên tục được cải thiện, và mỗi thế hệ kế tiếp sẽ tiến thêm một bước tới sự hoàn thiện của nhân loại; bởi vì điều bí ẩn lớn về sự hoàn thiện của bản chất con người nằm nơi giáo dục. Chỉ đến bây giờ, chúng ta mới có thể thực hiện được điều gì đó theo hướng này, vì nay là lần đầu tiên mọi người bắt đầu xét đoán đúng đắn và nhận biết rõ ràng những gì thực sự thuộc về một nền giáo dục tốt. Thật là thích thú khi nhận thức rằng bản chất con người sẽ liên tục được cải thiện và đưa tới trạng thái xứng đáng nhất với hắn thông qua giáo dục. Điều này mở ra cho ta viễn cảnh về một nhân loại hạnh phúc hơn trong tương lai.

Lý thuyết giáo dục như một lý tưởng

Nỗ lực phác hoạ một lý thuyết về giáo dục [Theorie der Erziehung] là một lý tưởng cao quý ; nó chẳng có hại chi cả, cho dù ta chưa thể thực hiện nó tức thì. Có điều chúng ta không được cho ý tưởng này là viển vông, cũng không được dèm pha nó như chỉ là một giấc mơ đẹp, vì có nhiều khó khăn ngăn cản việc thực hiện nó.

Lý tưởng chẳng là gì khác hơn cái quan niệm về một sự hoàn hảo chưa từng được trải nghiệm. Ý tưởng về một nền cộng hòa hoàn hảo, được cai trị bởi các nguyên tắc công lý chẳng hạn, một lý tưởng như vậy phải chăng là không thể được quan niệm, chỉ vì nó chưa từng được trải nghiệm? Trước hết, ý tưởng của chúng ta phải là đúng đắn, và sau đó, nó phải hoàn toàn là có thể, bất chấp mọi trở ngại còn đang cản trở việc thực hiện nó. Giả sử trò nói dối trở thành một thói tật phổ biến, thì phải chăng vì thế mà sự nói thật trở thành một ảo tưởng đơn thuần? Và cái lý tưởng về một nền giáo dục có thể phát huy mọi tâm thế và năng khiếu tự nhiên của con người chắc chắn là một ý tưởng tuyệt đối chân chính.

Mục đích của giáo dục : đảm bảo là con người sẽ hoàn thành số mệnh

Dưới hệ thống giáo dục hiện nay, con người không đạt được cứu cánh cuộc đời, bởi vì người đời sống theo không biết bao nhiêu cách thức khác nhau! Họ chỉ có thể đạt được sự đồng nhất khi tất cả đều hành động theo cùng một số nguyên tắc, và khi chúng trở thành như một bản chất thứ hai nơi họ. Điều chúng ta có thể làm là xây dựng một chương trình giáo dục phù hợp hơn để thúc đẩy các mục tiêu của nó, và truyền lại cho thế hệ sau những chỉ dẫn về cách thực hiện chương trình này, để họ có thể thực hiện nó dần dần. Hãy lấy cây tai gấu làm ví dụ. Khi được trồng từ một khúc rễ, cây này chỉ nở hoa tuyền một màu; nhưng khi được gieo từ hạt, cây trổ ra những bông hoa đủ màu sắc khác nhau. Thiên nhiên đã đặt vào cây những mầm mống đa dạng này, và sự phát triển của chúng chỉ là vấn đề gieo trồng và chăm sóc sao cho đúng cách. Nơi con người cũng thế mà thôi !

Có nhiều mầm mống tiềm ẩn trong con người. Chính chúng ta phải làm cho những mầm mống này tăng trưởng, bằng cách phát triển những năng khiếu và tâm thế tự nhiên của hắn, theo những tỷ lệ thích đáng, nhằm đảm bảo là hắn sẽ hoàn thành số mệnh. Các loài động vật tự thực hiện mục đích một cách vô thức. Con người phải phấn đấu mới đạt tới cứu cánh này, nhưng hắn không thể làm được cả điều ấy, nếu thậm chí còn không có được một ý tưởng nào về nó cả. Hơn nữa, hoàn thành số mệnh là điều hoàn toàn không thể đối với một cá nhân. Thử giả dụ một cặp cha mẹ được phát triển đầy đủ đầu tiên, hãy xem cách họ giáo dục con cái của mình như thế nào. Những cặp cha mẹ đầu tiên này làm gương cho đàn con, bọn chúng bắt chước họ, và bằng cách này phát triển một số năng khiếu và tâm thế tự nhiên. Tuy nhiên, mọi thiên hướng (tâm thế và năng khiếu) của chúng không thể cùng được phát triển kiểu này, bởi vì tất cả phụ thuộc vào những hoàn cảnh ngẫu nhiên mà bọn trẻ nhìn thấy như ví dụ. Thời xưa, người đời không có quan niệm về sự hoàn hảo mà bản chất con người có thể đạt tới — và ngay cả bây giờ chúng ta vẫn chưa có một ý tưởng rõ rệt nào về vấn đề này. Tuy nhiên, đây là điều chắc chắn: không một cá nhân nào, ở bất kể trình độ văn hóa nào, có thể đảm bảo dạy học trò hoàn tất số mệnh của chúng được. Để thành công trong mục đích này, không chỉ cần nỗ lực của một số ít cá nhân, mà là của toàn thể nhân loại.

Giáo dục là một quá trình xuyên suốt nhiều thế hệ

Giáo dục  là một nghệ thuật mà việc thực hành cần nhiều thế hệ mới có thể trở nên hoàn chỉnh được. Được trang bị bởi tri thức của những thế hệ trước, mỗi thế hệ ngày càng có khả năng tạo nên một nền giáo dục có đủ năng lực phát triển những tâm thế và năng khiếu tự nhiên của con người, theo các tỷ lệ thích hợp tương ứng với mục đích của hắn, và qua đó dẫn dắt toàn thể nhân loại tiến tới vận mệnh của mình. Như thể đấng Quan Phòng đã muốn rằng con người phải tự giải phóng những mầm mống tốt đẹp tiềm ẩn trong bản chất mình, và đã nói với hắn như sau: «Hãy bước vào thế gian! Ta đã trang bị cho mi mọi thiên hướng về điều tốt đẹp. Phần việc của mi chỉ còn là phát triển các thiên hướng ấy. Hạnh phúc hoặc bất hạnh chỉ tuỳ thuộc vào chính mi mà thôi!».

Con người phải phát triển các thiên hướng nhắm tới cái thiện, điều tốt. Đấng Quan Phòng gieo chúng vào con người, không phải ở trạng thái hoàn chỉnh, mà chỉ như những năng khiếu và tâm thế, chưa có sự phân biệt bằng quy luật đạo đức ở đây. Bổn phận của con người là phải tự hoàn thành, trau dồi trí tuệ, và khi thấy mình lầm lạc, tự phát triển và áp dụng các quy luật đạo đức lên bản thân. Khi suy ngẫm một cách chín chắn, chúng ta sẽ thấy ngay rằng chương trình này là khó khăn biết chừng nào. Do đó, giáo dục là vấn đề lớn nhất và khó khăn nhất mà con người có thể tự đặt cho mình. Vì sự sáng suốt phụ thuộc vào giáo dục, và giáo dục lại tuỳ thuộc vào sự sáng suốt, cho nên giáo dục chỉ có thể tiến triển từng bước một. Và một quan niệm đúng đắn về phương pháp giáo dục chỉ có thể nảy sinh, khi một thế hệ truyền lại kho kinh nghiệm và tri thức của mình cho thế hệ tiếp theo, rồi mỗi thế hệ lại bổ sung vào đấy cái phần đóng góp riêng của nó trước khi trao tất cả lại cho thế hệ sau nữa. Quan niệm này không giả định một nền văn hóa và một kho kinh nghiệm cực kỳ rộng lớn sao? Cho nên nó chỉ có thể xuất hiện rất trễ, và cho đến nay, ngay chính chúng ta cũng vẫn chưa nhận thức được quan điểm này một cách đầy đủ. Câu hỏi đặt ra là, cho chương trình giáo dục cá nhân, liệu chúng ta nên bắt chước quá trình giáo dục của loài người xuyên suốt các thế hệ kế tiếp chăng?

3 - GIÁO DỤC NHƯ MỘT NGHỆ THUẬT

Hai phát minh của con người có thể được xem là khó khăn hơn bất kỳ phát minh nào khác, mặc dù mọi người vẫn còn tranh cãi về ý nghĩa của chúng, đấy là nghệ thuật cai trị nghệ thuật giáo dục [Erziehungskunst].

Nhưng ta phải bắt đầu xem xét sự phát triển những tâm thế và năng khiếu của con người từ đâu? Từ trạng thái hoang sơ [Rohigkeit] hay từ một xã hội đã phát triển? Thật khó mà hình dung một sự phát triển từ tình trạng hoang dại —cũng khó như phải tưởng tượng xem con người đầu tiên trông như thế nào, và ta thấy ngay rằng, nếu đã từng phát triển từ những điều kiện như vậy, con người hẳn đã luôn luôn rơi trở lại trạng thái hoang sơ ấy, và đã phải không ngừng làm những nỗ lực mới, hầu thoát ra khỏi nó. Cho nên ngay ở các quốc gia rất văn minh vẫn có dấu vết của sự man rợ quẩn quanh đâu đấy, như những ghi chép xưa sớm nhất còn lại của chúng cho thấy. Và chữ viết phải chăng đã giả định một trình độ văn hóa nhất định? đến mức là, nhìn từ quan điểm của sự văn minh, bước đầu của nghệ thuật viết từng được xem là buổi bình minh của thế giới.

Tính khoa học phải thay thế tính máy móc trong nghệ thuật giáo dục

Vì những năng khiếu và tâm thế tự nhiên của con người không tự phát triển, nên toàn bộ giáo dục là một nghệ thuật. Thiên nhiên không đặt vào con người bất kỳ một bản năng nào cho mục đích ấy. Nguồn gốc cũng như việc thực hiện nghệ thuật này hoặc mang tính máy móc và không có kế hoạch, bị chi phối bởi những tình huống nhất định, hoặc bao gồm việc thực hành phán đoán. Nghệ thuật giáo dục chỉ mang tính máy móc khi chúng ta tình cờ học được, qua kinh nghiệm, rằng điều gì đó là hữu ích hay có hại cho ta. Mọi thứ giáo dục chỉ có tính máy móc đều phải mang theo nhiều khiếm khuyết và sai lầm, bởi vì nó không dựa trên một nguyên tắc chắc chắn nào trong quy trình thực hiện cả. Nếu giáo dục là phát triển bản chất con người để hắn có thể tự hoàn thành số mệnh, thì nó phải bao gồm việc thực hành những phán xét. Cha mẹ có học thức đã là tấm gương mà con cái sử dụng để tự hướng dẫn rồi. Tuy nhiên, nếu con cái muốn tiến bộ hơn cha mẹ, giáo dục phải trở thành một quá trình học — thành khoa sư phạm học [Pädagogik], nếu không chúng ta chẳng thể hy vọng gì từ nó, và kẻ mà sự giáo dục bản thân đã hư đốn sẽ chỉ lặp lại sai lầm của mình khi cố gắng giáo dục người khác. Trong nghệ thuật giáo dục, hiểu biết khoa học [Wissenschaft] phải thay thế thái độ máy móc, nếu không nó sẽ không bao giờ là một nỗ lực liên tục, và thế hệ sau có thể sẽ phá đổ cái kết quả mà thế hệ trước dựng lên.

Giáo dục phải hướng tới tương lai và mang tính toàn cầu

Một nguyên tắc giáo dục mà chúng ta — đặc biệt là những người lập kế hoạch giáo dục — cần phải luôn luôn đặt trước mắt là: trẻ em cần được giáo dục, nhưng không phải cho hiện trạng của nhân loại, mà vì một sự cải thiện khả thi những điều kiện làm người trong tương lai, dựa trên ý tưởng về nhân loại và về toàn bộ vận mệnh con người. Nguyên tắc này có tầm quan trọng rất lớn. Cha mẹ thường chỉ giáo dục con cái sao cho chúng có khả năng tự thích nghi vào những điều kiện của thế giới hiện tồn, bất kể chúng tồi tệ đến đâu. Trái lại, lẽ ra họ nên cho chúng một nền giáo dục tốt hơn thế nhiều, ngỏ hầu có thể tạo ra những điều kiện sống tốt đẹp hơn trong tương lai.

Tuy nhiên, ở đây, chúng ta gặp phải hai khó khăn — (a) Cha mẹ thường chỉ quan tâm đến việc con cái họ có thể thành đạt trên đời trong thế giới này hay không, và (b) Các ông hoàng cai trị chỉ coi thần dân của mình là những công cụ phục vụ cho mưu đồ riêng của họ.

Cha mẹ bận tâm vì gia đình, kẻ cai trị vì nhà nước. Cả hai đều không nhắm tới mục đích là sự tốt đẹp phổ quát và sự hoàn hảo tiền định [Weltbeste, Vollkommenheit], đồng thời cũng là những mục tiêu con người hướng tới một cách tự nhiên. Thế nhưng nền tảng của một chính sách và chương trình giáo dục phải mang tính toàn cầu. Vậy thì, lý tưởng về một sự tốt đẹp phổ quát có thể là tai hại chăng cho điều tốt đẹp riêng của chúng ta trong tư cách cá nhân [Privatbesten]? Không bao giờ! Nền tảng của giáo dục phải mang tính toàn cầu, vì mặc dù có vẻ như ta phải hy sinh một điều gì đó vì lý tưởng này, cũng vẫn có một bước tiến hướng tới điều tốt đẹp nhất, ngay cả cho mỗi cá nhân, so với điều kiện sống hiện tại của anh ta. Và rồi, bao hậu quả của sự phồn vinh sẽ theo sau nữa! Mọi điều tốt đẹp trên thế giới này đều nảy sinh từ một nền giáo dục tốt. Chỉ cần phát triển ngày càng nhiều hơn những mầm mống tiềm ẩn trong con người, vì trong số các thiên hướng tự nhiên của con người, không có nguyên lý của cái ác. Nguyên nhân duy nhất của cái ác là sự kiện bản chất người không được kiểm soát bởi các quy luật. Trong con người chỉ có mầm mống của cái thiện.

Lý tưởng giáo dục chủ yếu phụ thuộc vào những nỗ lực cá nhân

Nhưng ai sẽ mang lại những điều kiện tốt đẹp hơn cho thế giới này? Các ông hoàng cai trị hay thần dân của họ? Nếu bởi những người sau, liệu họ sẽ  phải đi một nửa con đường, nghĩa là phải tự cải thiện bản thân để đáp ứng các biện pháp mà chính phủ có thể thiết lập vì lợi ích của mình chăng? Nếu bởi những kẻ cai trị, thì ta sẽ phải cải thiện trước tiên thứ giáo dục mà bản thân họ từng nhận được, bởi vì nó đã bị hư đốn suốt một thời gian quá dài, do sai lầm lớn của ta là đã tạo cho họ thói quen không gặp một kháng cự nào từ khi còn trẻ. Một thân cây đứng cô đơn trên cánh đồng sẽ phát triển cong queo, và xòe rộng các nhánh của nó ra mọi phía; trái lại, một thân cây mọc giữa khu rừng, do sức ép của những cây khác xung quanh, và vì phải vươn tìm không khí với nắng sáng từ trên cao, sẽ phát triển cao và thẳng. Kẻ cai trị cũng thế thôi. Trong mọi trường hợp, tốt hơn hết là họ phải được một ai đó trong số thần dân của họ giáo dục, thay vì bởi người đồng đẳng. Do đó, ta chỉ có thể trông đợi kẻ cai trị mang lại sự tiến bộ, nếu thứ giáo dục của họ là cao hơn thứ giáo dục mà thần dân của họ nhận được ! Như vậy, không như Basedow[1] và những người khác giả định, lý tưởng lợi ích phổ quát chủ yếu phụ thuộc vào những nỗ lực cá nhân, chứ không phải sự giúp đỡ của các ông hoàng cai trị. Bởi vì, qua kinh nghiệm, chúng ta đều thấy rằng, trong giáo dục, họ không hướng tới lợi ích phổ quát mà chỉ nhằm phục vụ sự thoải mái của nhà nước, qua đó họ có thể đạt được một số mục đích riêng. Gia dĩ, nếu họ cấp vốn cho mục đích lý tưởng này, thì việc lập kế hoạch phải nằm trong tay họ, như ta đã thấy trong mọi chuyện liên quan tới sự trau dồi văn hoá và mở rộng tri thức con người. Quyền lực và tiền bạc đơn thuần không thể mang lại cho ta văn hoá và tri thức, nhiều lắm chúng chỉ có thể làm cho nhiệm vụ giáo dục bớt nhọc nhằn hơn. Họ cũng có thể làm được cả điều ấy, nếu các cơ quan tài chính nhà nước không quá bận tâm tính toán trước số lợi nhuận mà mỗi khoản chi vì lý tưởng trên có thể mang lại cho ngân khố. Vì vậy, các học khu và cơ quan công cộng vẫn chưa hề lãnh nhiệm vụ này cho đến nay, và xác suất họ sẽ nhận lấy nó trong tương lai hiện thấp hơn bao giờ hết.

Việc quản lý trường học phải phụ thuộc hoàn toàn vào giới chuyên gia

Do đó, việc quản lý trường học phải phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng phán xét của các chuyên gia sáng suốt nhất. Mọi nền văn hóa đều bắt đầu từ cá nhân, rồi từ đấy mới lần hồi lan toả sang bao kẻ khác. Con người chỉ có thể phát huy bản chất cùng thiên hướng của hắn nhờ năng lực của những người có tầm nhìn sâu rộng hơn, quan tâm hơn tới lợi ích chung, và có khả năng nuôi dưỡng ý tưởng về một điều kiện tốt đẹp hơn cho mọi sinh hoạt trong tương lai. Tuy nhiên, hơn một kẻ cai trị vẫn luôn luôn coi thần dân của mình như chỉ là một phần của giới động vật mà mục đích tồn tại duy nhất là duy trì nòi giống, như ta thỉnh thoảng vẫn thấy đây đó. Nếu ông hoàng này xét tới việc rèn luyện trí tuệ, thì chỉ là để thần dân học được sự khôn khéo có thể là hữu ích hơn cho ông ta trong việc thực hiện các mưu tính riêng. Tất nhiên, cá thể tư nhân cần phải luôn luôn hướng tới mục đích tự nhiên trên, nhưng họ cũng phải đặc biệt lưu ý đến sự phát triển của nhân loại và đảm bảo rằng con người không chỉ có sự thông minh mà còn phải có đạo đức; và điều khó khăn hơn nữa, phải tìm cách đưa thế hệ sau tới gần với trạng thái hoàn hảo hơn là mức độ bản thân họ đã đạt được.

4 - MỤC TIÊU MỖI THÀNH PHẦN GIÁO DỤC PHẢI THỰC HIỆN

Thông qua giáo dục, người đời phải thành Người. Do đó, giáo dục phải là:

1° Trước hết, kỷ luật hoá người đời. Kỷ luật hoá họ là tìm cách kiềm chế bản chất động vật sao cho nó không vượt qua bản chất con người nơi họ, hoặc như cá thể, hoặc như một thành viên của xã hội. Do đó, nội dung của kỷ luật chỉ đơn giản là sự kiềm chế tính hoang đàng.

2° Thứ hai, giáo dục phải mang văn hóa lại cho người đời. Văn hoá bao gồm thông tin và dạy học. Chính văn hóa dạy học tạo ra kỹ năng [Geschicklichkeit, ability, habilité]. Kỹ năng là sự sở hữu thứ khả năng có thể thích ứng vào nhiều mục đích khác nhau. Do đó, kỹ năng không đề xuất bất kỳ một mục đích nào, mà để cho các hoàn cảnh phát sinh sau đó quyết định. Ở đây, một số thành tựu về cơ bản là tốt cho mọi người — ví dụ như kỹ năng đọc và viết; những thành tựu khác chỉ tốt cho sự theo đuổi một số mục đích nhất định — chẳng hạn như kỹ năng âm nhạc, chỉ để cho kẻ sở hữu nó được yêu thích. Như vậy, có thể nói kho kỹ năng của con người hầu như là vô tận, vì những mục đích khác nhau mà người đời có thể hướng tới là vô cùng.

3° Thứ ba, giáo dục cũng phải cung cấp cho người đời sự suy xét thận trọng [Klugheit, discretion, prudence], để họ có thể cư xử trong xã hội, có thể được yêu quý, và có thể giành ảnh hưởng. Ở đây, cần có một thứ văn hóa ta gọi là phong cách văn minh [Zivilisierung]. Nó đòi hỏi khuôn phép, cách thức hành xử, và một sự khôn khéo cho phép họ hướng mọi người tới mục đích riêng. Phong cách này thay đổi theo thị hiếu luôn luôn biến đổi của các thời kỳ khác nhau. Chẳng hạn, khoảng hai hay ba mươi năm trước, hình thức lễ nghi trong giao tiếp xã hội vẫn còn là thời trang.

4° Thứ tư, đào tạo đạo đức [Moralisierung], phải là một phần của giáo dục. Có khả năng thích ứng vào bất kỳ một mục đích nào vẫn chưa đủ để hoàn thành nhân cách, con người còn phải được đào tạo để có tâm thức không chọn cứu cánh nào khác ngoài các mục đích tốt đẹp — nghĩa là những mục đích mà mọi người nhất thiết phải tán thành, đồng thời có thể là mục đích cho mỗi người.

XXX

Trẻ em phải được dạy suy nghĩ và ghét cái xấu ác

Con người có thể bị, hoặc điều kiện hoá, thuần hoá, rèn luyện một cách máy móc, hoặc có thể thực sự được khai sáng. Ngựa và chó đã bị thuần hoá; và con người cũng có thể bị thuần hoá. Tuy nhiên, chỉ rèn luyện trẻ là chưa đủ; điều quan trọng hơn là trẻ em phải học suy nghĩ. Bằng cách học suy nghĩ, con người sẽ hành động theo các nguyên tắc cố định chứ không phải bạ đâu làm đấy. Như vậy, chúng ta thấy rằng một nền giáo dục thực sự bao hàm rất nhiều đòi hỏi. Nhưng như một quy luật, trong nền giáo dục tư nhân của ta, điểm thứ tư và quan trọng nhất vẫn bị sao lãng quá nhiều, trẻ em chỉ được dạy những môn cho là chính yếu, và phần đạo đức bị bỏ mặc cho các nhà truyền giáo. Tuy nhiên, điều quan trọng biết bao là trẻ em phải học ghét cái xấu ác, từ thời thơ ấu đến lúc lớn khôn, không chỉ vì Thượng Đế nghiêm cấm nó, mà còn vì tự thân nó là đáng ghét! Nếu trẻ em không sớm học điều này, rất có thể chúng sẽ nghĩ rằng làm điều xấu ác không có chi là sai trái, vì Thượng Đế không ngăn cấm nó, và như vậy thì cũng chẳng có gì là tai hại, vì có thể thỉnh thoảng Ngài sẽ làm một ngoại lệ, như cho phép chúng làm chẳng hạn. Nhưng Thượng Đế là đấng linh thiêng nhất, Ngài chỉ muốn điều tốt lành nên mong mỏi chúng ta yêu đức hạnh vì bản thân nó, chứ không chỉ vì Ngài đòi hỏi nó.

Chúng ta đang sống trong thời đại của kỷ luật, văn hóa và văn minh, nhưng vẫn chưa phải là thời đại của đạo đức. Theo các điều kiện hiện tại của nhân loại, ta có thể nói rằng sự phồn thịnh của nhà nước phát triển song song với sự khốn khổ của người dân. Liệu chúng ta sẽ sống hạnh phúc hơn trong điều kiện chưa văn minh — nơi mà mọi nền văn hóa của thời đại này đều sẽ không tìm thấy chỗ đứng — hơn là trong tình trạng xã hội hiện nay chăng? Đây vẫn còn là câu hỏi. Thật vậy, vì làm sao người đời có thể sống hạnh phúc, nếu trước tiên họ không được dạy để trở nên khôn ngoan và đạo đức? Và cho đến khi các giá trị này được chọn như mục đích ưu tiên phải thực hiện, thì mức độ xấu ác sẽ không giảm xuống.

Sự cần thiết làm thí nghiệm trong giáo dục

Chúng ta phải lập loại trường thực nghiệm [Experimentalschulen] trước khi có thể lập những trường chuẩn tắc [Normalschulen]. Giáo dục và dạy học phải được đặt trên các nguyên tắc ổn định, chứ không thể chỉ mang tính máy móc hoàn toàn; tuy nhiên, chúng cũng phải đồng thời mang tính máy móc theo một nghĩa nào đấy, chứ không thể chỉ được xúc tiến đơn thuần dựa trên lý luận mà thôi.

Ở Áo, phần lớn các trường học đều từng là trường chuẩn tắc, chúng được thành lập và hoạt động theo một chương trình cố định, điều này đã bị nhiều người phản đối, và không phải là không có lý do. Điểm khiếu nại chính của họ là việc giảng dạy ở đây chỉ mang tính máy móc mù quáng. Nhưng mọi trường học khác đều buộc phải tự rập khuôn theo mô hình của các trường chuẩn tắc này, bởi vì chính phủ thậm chí còn từ chối tuyển dụng những người không được đào tạo ở loại trường này. Đây là một ví dụ về cách chính phủ có thể can thiệp vào chương trình dạy các môn học, và bao nhiêu tai hại có thể phát sinh từ sự áp đặt ấy.

Ta thường tưởng tượng rằng thí nghiệm trong giáo dục là không cần thiết, và chúng ta có thể đánh giá xem điều gì đó là tốt hay không chỉ bằng lý trí của mình. Đây là một sai lầm lớn, và kinh nghiệm dạy ta rằng kết quả của một thí nghiệm thường là hoàn toàn trái với những điều chúng ta chờ đợi. Như vậy, ta cần thấy rằng chính vì chúng ta phải được hướng dẫn bởi các thí nghiệm, nên không một thế hệ nào đã có thể đưa ra một chương trình giáo dục hoàn chỉnh. Ngôi trường thực nghiệm duy nhất từng, ở một mức độ nào đó, bước đầu mở đường khai lối là Học viện Dessau1. Bất chấp nhiều sai lầm có thể bị phê phán — thứ sai lầm có thể gặp trong mọi cuộc thí nghiệm — điều phải được nói ra trong lời ca ngợi nó là Dessau đã không ngừng thúc đẩy nhiều cuộc thí nghiệm mới. Một cách nào đó, đây là ngôi trường duy nhất ở đấy giáo viên được tự do xây dựng phương pháp và chương trình học riêng của mình, ở đấy họ hiệp thông được với nhau và với các giới học thuật Đức khác.

XXX

Vai trò của cha mẹ, giáo viên, gia sư

Về vai trò nhà giáo dục, ta có thể nói rằng, vì giáo dục bao gồm: (1) chăm nuôi, nên có phần việc của cha mẹ, (2) Dạy học, nên có phần việc của giáo viên ở trường, và (3) Hướng dẫn, nên có phần việc của gia sư.

Giáo dục bao gồm việc chăm nuôi trẻ em, và khi chúng lớn lên, văn hóa của chúng. Khởi đầu, văn hóa là tiêu cực: nó bao gồm kỷ luật, nghĩa là chỉ giới hạn vào việc ngăn ngừa, chỉnh sửa lỗi lầm. Thứ hai, văn hóa là tích cực: nó bao gồm việc dạy học và hướng dẫn (do đó, tạo thành một phần của giáo dục). Hướng dẫn có nghĩa là chỉ đạo học sinh thực hành những gì chúng đã được dạy. Do đó, có sự khác biệt giữa một giáo viên (Informator, teacher, professeur), người chỉ dạy học, người chỉ rèn luyện cho thứ giáo dục nhà trường, và một gia sư (Hofmeister, tutor, gouvernant), kẻ hướng dẫn và chỉ đạo học sinh của mình, kẻ đào tạo cho cuộc sống.  

Ở giai đoạn đầu của sự phát triển này, cậu học trò phải cho thấy sự phục tùng và vâng lời thụ động; ở giai đoạn sau, cậu ta được phép sử dụng tự do và khả năng suy nghĩ của mình, nhưng với điều kiện là dưới một số quy tắc. Sự cưỡng bách trong giai đoạn thứ nhất là máy móc, ở giai đoạn sau nó là áp lực tinh thần.

Giáo dục tư gia, giáo dục công cộng, viện giáo dục

Giáo dục là tư nhân hoặc công cộng. Thứ giáo dục sau chỉ liên quan tới việc dạy học, và điều này luôn luôn có thể là công cộng. Còn việc thực hành các giới luật được giao cho giáo dục tư nhân. Một nền giáo dục công cộng hoàn chỉnh phải kết hợp được việc dạy học với văn hóa đạo đức. Mục đích của nó là thúc đẩy một nền giáo dục tư nhân tốt. Ta gọi một trường học thực hiện được điều này là một học viện giáo dục [Erziehungsinstitut]. Không thể có nhiều thiết chế như vậy, và số lượng trẻ em được nhận vào chỉ có thể là ít, do học phí ở đây phải cao, vì chỉ việc thành lập và quản lý các tổ chức này không thôi đã đòi hỏi rất nhiều chi phí. Vì lý do này, những trẻ em không thuộc thành phần giàu có khó lòng đặt chân vào các tổ chức loại học viện. (Trường hợp học viện cũng giống như của các nhà tế bần và bệnh viện: những xây cất cần thiết, cùng với lương bổng của nhân viên — từ giám đốc, giám thị đến người quét dọn — đã lấy đi một nửa ngân sách hoạt động; chắc chắn rằng, trong trường hợp nhà tế bần chẳng hạn, nếu số tiền đó được gửi thẳng vào tay kẻ nghèo khó, họ sẽ nhận được nhiều hơn!)

Mục đích của các học viện như trên là nhằm cải thiện giáo dục tư gia. Giá như bản thân các cha mẹ hay những kẻ đồng hành với họ trong việc giáo dục cũng được giáo dục tốt, thì chi phí cho các học viện có thể tránh được. Mục đích của loại tổ chức này là thực hiện các cuộc thí nghiệm, và giáo dục những cá nhân để, với thời gian, một nền giáo dục tư gia tốt có thể phát sinh từ các tổ chức này.

Giáo dục tư gia do chính cha mẹ thực hiện, hoặc nếu cha mẹ không có thời gian, năng khiếu, hay thích thú cho việc này, thì do những người khác được họ trả lương để hỗ trợ họ. Nhưng trong thứ giáo dục do những người trợ lý hay gia sư này thực hiện, một khó khăn rất lớn sẽ nảy sinh — cụ thể là sự phân chia thẩm quyền giữa cha mẹ và gia sư. Trẻ em được yêu cầu phải tuân theo quy tắc của gia sư, đồng thời phải tuân theo ý thích của cha mẹ. Cách duy nhất để thoát khỏi bất tiện này là cha mẹ phải giao toàn bộ uy quyền của mình cho gia sư.

Vậy thì giáo dục tư gia có lợi thế hơn giáo dục công cộng bao nhiêu, hoặc ngược lại? Xét không chỉ từ góc độ phát triển kỹ năng, mà còn từ sự chuẩn bị cho nghĩa vụ của một công dân, tôi tin rằng, nhìn chung, giáo dục công phải được công nhận là tốt nhất. Giáo dục tư gia thường không chỉ nuôi dưỡng, mà còn có xu hướng tiếp tục và gia tăng những khiếm khuyết của gia đình ở thế hệ sau.

Giáo dục trẻ em như một vấn đề chuyên biệt lớn

Vậy thì giáo dục phải kéo dài bao lâu? Cho đến khi cậu thiếu niên đạt tới đoạn đời cậu ta có khả năng tự điều chỉnh hành vi của mình như thiên nhiên quy định, khi bản năng tính dục phát triển trong thân thể và cậu có thể tự trở thành một người cha, với nghĩa vụ phải giáo dục con cái của mình. Giai đoạn này thường đạt tới vào khoảng năm mười sáu tuổi. Tuy sau đó, ta vẫn có thể nhờ một số thầy trau dồi văn hóa cho cậu, và đặt cậu dưới một hình thức kỷ luật kín đáo, nhưng giáo dục theo nghĩa thông thường của từ này không còn là cần thiết cho cậu ta nữa.

Trong giai đoạn đầu, đứa trẻ phải học cách phục tùng và vâng lời tích cực. Ở giai đoạn tiếp theo, em phải được phép tự suy nghĩ và có một lượng tự do nhất định, mặc dù vẫn phải tuân theo một số quy tắc. Giai đoạn đầu mang tính máy móc, giai đoạn thứ hai là sự ràng buộc về mặt tinh thần.

Sự phục tùng của đứa trẻ có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Tích cực ở chỗ em phải làm những gì được bảo, vì không thể tự mình phán đoán và vì khả năng bắt chước vẫn còn mạnh mẽ trong em. Tiêu cực ở chỗ em phải làm những gì kẻ khác muốn em làm, nếu em muốn họ làm điều gì cho em vui lòng. Trong trường hợp trước, hậu quả của việc không tuân thủ là hình phạt; trong trường hợp sau, là không có được điều mong muốn — ở đây, mặc dù có khả năng tự suy nghĩ, về sự thích thú của riêng mình, em vẫn phụ thuộc vào người khác.

Một trong các vấn đề lớn nhất của giáo dục là làm thế nào, dưới một sự ép buộc chính đáng, hoà giải sự phục tùng với sự hạn chế khả năng thực hiện ý chí tự do của đứa trẻ — vì sự hạn chế này là cần thiết. Làm thế nào phát triển được ý thức tự do bằng sự bó buộc? Tôi phải làm cho học sinh của mình quen với việc chịu đựng sự hạn chế tự do của em, đồng thời tôi cũng phải hướng dẫn em sử dụng đúng đắn tự do của mình. Nếu không làm được điều này, mọi nền giáo dục chỉ đơn thuần là máy móc, và khi quá trình giáo dục kết thúc, em sẽ không bao giờ có thể sử dụng đúng đắn tự do của mình. Đứa trẻ cần cảm nhận được sớm sự cản chống không thể tránh né của xã hội, để có thể hiểu việc tự nuôi sống, chịu đựng những thiếu thốn, và có được những thứ cần thiết cho cuộc sống độc lập là khó khăn như thế nào.

Ở đây ta phải lưu ý những quy tắc sau. Đầu tiên, chúng ta phải cho phép đứa trẻ, ngay từ khi còn nhỏ, được tự do hoàn toàn về mọi mặt (trừ các trường hợp em có thể tự gây thương tổn, như khi cầm dao chẳng hạn), miễn là khi hành động em không cản trở tự do của kẻ khác, như khi gào khóc hoặc quá vui la hét ầm ỹ làm phiền mọi người.

Thứ hai, phải cho đứa trẻ thấy rằng em chỉ có thể đạt mục đích bằng cách để người khác cũng đạt được mục đích của họ. Ví dụ, nếu đứa trẻ không vâng lời hoặc từ chối học bài, em phải bị từ chối mọi phần thưởng mong đợi...

Thứ ba, ta phải chứng minh cho đứa trẻ thấy rằng những hạn chế hay bài học áp đặt chỉ nhằm, hoặc dạy em biết cách sử dụng đúng đắn quyền tự do sau này, hoặc bồi dưỡng trí tuệ để một ngày nào đó em có thể được tự do, nghĩa là không lệ thuộc vào sự trợ giúp của người khác. Đây là điều cuối cùng trẻ em hiểu được. Phải rất lâu sau này trong cuộc đời, chúng mới nhận ra các sự kiện như sau này chúng sẽ phải tự nuôi sống bản thân; vì chúng cứ tưởng mình có thể tiếp tục sống như đang ở trong nhà cha mẹ, rằng đồ ăn và thức uống sẽ luôn luôn được cung cấp, không cần phải bận tâm. Thật vậy, trừ phi trẻ em — đặc biệt là con cái các đại gia hay ông hoàng bà chúa — được dạy dỗ để nhận ra điều này, chúng sẽ là trẻ con suốt đời, như cư dân đảo Tahiti.

Ở đây, ta thấy ngay lợi thế của giáo dục công: trong hệ thống này, ta học biết năng lực của mình so với người khác, biết những giới hạn mà quyền tự do của kẻ khác áp đặt lên chúng ta. Ở đây, ta không hưởng một ưu đãi nào, gặp sự chống trả khắp nơi, và chỉ có thể gây ấn tượng hay giành được lợi thế bằng hành vi thực sự xứng đáng. Giáo dục công là hình ảnh tốt nhất của đời sống cộng đồng, là ngôi trường tốt nhất cho công dân tương lai.

Còn một khó khăn nữa cần được đề cập ở đây — đấy là việc dự đoánphòng bị hiểu biết về các vấn đề giới tính và tính dục ở trẻ em, sao cho có thể ngăn ngừa những thói hư tật xấu có thể phát sinh ở chúng ngay khi mới trưởng thành. Ta sẽ thảo luận khó khăn này sau.

XXX

Giáo dục 'thể chất' và giáo dục 'thực tiễn'

Giáo dục có thể là giáo dục thể chất hoặc giáo dục 'thực tiễn'. Một phần của giáo dục thể chất là phần con người có chung với động vật — cụ thể là việc nuôi dưỡng và săn sóc. Giáo dục 'thực tiễn' hay tinh thần là phần giáo dục người đời cách sống như một con người tự do (bất cứ điều gì liên quan tới tự do, chúng tôi gọi là 'thực tiễn'). Đây là phần giáo dục về cá tính, về một con người tự do — có khả năng tự duy trì, có chỗ đứng thích hợp trong xã hội, đồng thời vẫn giữ được ý thức đúng đắn về cá tính riêng.

Ba phần của giáo dục thực tiễn

(1) Sự dạy học làm cho con người có giá trị như một cá nhân (cho chính hắn) (2) Giáo dục thực tiễn làm cho con người có giá trị như một công dân (cho nhà nước và xã hội) (3) Sự rèn luyện đạo đức làm cho con người có giá trị như một con người (cho nhân loại)

Do đó, phần giáo dục 'thực tiễn' này bao gồm ba phần: (a) Chương trình giảng dạy thông thường của trường học [Scholastisch-mechanische Bildung], nơi kỹ năng nói chung của trẻ em được phát triển — phần việc của giáo viên; (b) Sự hướng dẫn các vấn đề thực tiễn của cuộc sống — hành động với sự suy xét thận trọngphần việc của gia sư; (c) Sự rèn luyện đạo đức.

Người đời cần được rèn luyện về các môn dạy ở trường, nhằm phát triển kỹ năng cần thiết cho sự thành đạt trong các nghề nghiệp rất khác nhau của cuộc sống. Sự giảng dạy ở trường mang lại cho mỗi học viên một giá trị cá nhân riêng.

Tiếp theo, khi lĩnh hội được sự suy xét thận trọng trong các vấn đề thực tiễn của cuộc sống, học viên được giáo dục như một công dân, và trở nên có giá trị đối với kẻ đồng hương của mình, vừa học cách tự thích nghi vào xã hội, vừa học cách hưởng lợi từ nó.

Cuối cùng, sự rèn luyện đạo đức truyền đạt cho con người một giá trị liên quan đến toàn thể nhân loại. Giáo dục ở trường là sớm nhất, đào tạo đạo đức là cuối cùng, theo thứ tự thời gian.

Trong ba bộ phận giáo dục này, giáo dục nhà trường đứng đầu theo thứ tự thời gian; vì kỹ năng của đứa trẻ phải được phát triển và rèn luyện trước tiên, nếu không, em sẽ không có khả năng tiếp thu hiểu biết về các vấn đề thực tiễn của cuộc sống. Sự suy xét thận trọng là khả năng sử dụng đúng đắn các khả năng của chúng ta.

Trong chừng mức là nó dựa trên các nguyên tắc cơ bản mà bản thân con người bao hàm, đào tạo đạo đức đến sau cùng theo thứ tự thời gian. Tuy nhiên, trong chừng mực là nó chỉ dựa trên lẽ thường, nó phải được tính tới ngay từ đầu, cùng lúc với đào tạo thể chất; bởi vì nếu đào tạo đạo đức bị bỏ qua, nhiều lỗi lầm sẽ bắt rễ ở đứa trẻ, và mọi nỗ lực chống trả của giáo dục ở giai đoạn sau sẽ trở thành bất lực. Về khả năng và hiểu biết chung trong cuộc sống, mọi chuyện phải hoàn toàn phụ thuộc vào độ tuổi của học sinh. Hãy để một đứa trẻ thông minh theo cách của em; hãy để em khôn ngoan và có lòng tốt theo cách của trẻ con, chứ không lanh lợi như người lớn. Sự biểu lộ nét tinh ranh của người lớn ở một đứa trẻ và sự lưu giữ một tâm hồn trẻ con ở kẻ trưởng thành đều không thích hợp như nhau.

Immanuel Kant,
Thoughts On Education, Ch. I


[1] Johann Bernhard Basedow (1724-1790): giáo viên, nhà cải cách giáo dục, nhà văn người Đức; người đã thành lập Philanthropinum (do các từ Hy Lạp φίλος = bạn, và άνθρωπος = người,  1774-1793), một trường học tiến bộ đặt cơ sở trên các nguyên tắc của trào lưu giáo dục philanthropinism (chủ nghĩa nhân từ) trong thời kỳ Khai Sáng ở Đức, rất có ảnh hưởng ở Dessau ; đồng thời là tác giả một cuốn sách giáo khoa minh họa phổ biến cho trẻ em Elementarwerk (Elementary Book). Kant để lại hai tiểu luận về Philanthropinum.

CHUYÊN TRANG CỦA NHÀ NGHIÊN CỨU Nguyễn Văn Khoa