CN : 15-6-2025 |
C1 |
HAI QUAN ĐIỂM VỀ TRIẾT HỌC
(1800)
Tác giả: Immanuel Kant*
Bản tiếng Anh: Thomas Kingsmill Abbott
Bản tiếng Pháp: Joseph Tissot & Magalie Schwartzerg
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa
*
Bản dịch trích đoạn dưới đây đã được thực hiện cho quyển Immanuel Kant: Kỷ Yếu 300 Năm, 1724-2024 – Vén Mây Giữa Trời[1], với một số chú thích bổ sung không có trong quyển Kỷ Yếu.
Trích đoạn là Chương III trong quyển Logik của Immanuel Kant, do học trò của ông, Gottlob Benjamin Jäsche (1762-1842), biên soạn và xuất bản năm 1800. Vế quyển sách và điều kiện xuất bản nó nói chung, xem trên trang mục Lô-gic và Toán Học: Immanuel Kant, Khái Niệm Lô-gic Học.
Bản dịch tiếng Việt này đã được thực hiện từ bản Anh ngữ, Introduction to Logic của Thomas K. Abbott (1885), có đối chiếu với bản tiếng Pháp, Idée de Logique (1862) của Joseph Tissot. Tựa và các tiểu tựa trong bản Việt ngữ là do người dịch thêm vào, để bạn đọc có thể theo dõi trích đoạn dễ dàng hơn.
*
Tri thức lý tính, tri thức lịch sử
Định nghĩa một khoa học là gì đôi khi rất khó. Nhưng một khi ta đã thiết lập được một khái niệm xác định về nó, thì khoa học ấy sẽ đạt được một độ chính xác cao, và nhờ vậy chúng ta cũng sẽ tránh được nhiều sai lầm tuy khác nhau nhưng đều xảy ra do ta không thể phân biệt được nó với các khoa học cùng nguồn gốc.
Như vậy, khi chuẩn bị đưa ra một định nghĩa về triết học, ta phải tìm hiểu bản chất của các ngành tri thức khác nhau trước đã, và do hiểu biết triết học thuộc về nhóm các tri thức lý tính, chúng ta phải giải thích trước tiên thứ hiểu biết sau là gì.
Tri thức lý tính đối lập với tri thức lịch sử. Cái trước là thứ tri thức từ nguyên lý (ex principiis); cái sau là thứ tri thức từ dữ liệu (ex datis). Tuy nhiên, một tri thức có thể có nguồn gốc từ lý trí, nhưng vẫn mang tính lịch sử, như khi một kẻ biết chữ nghĩa chỉ đơn thuần học lại sản phẩm trí tuệ của người khác chẳng hạn, thì tri thức của anh ta về các sản phẩm lý tính ấy chỉ mang tính lịch sử mà thôi.
Tri thức khách quan & Tri thức chủ quan
Trên thực tế, chúng ta có thể phân biệt các loại tri thức khác nhau như sau: 1) Theo nguồn gốc khách quan của chúng, tức là theo cái nguồn duy nhất từ đấy hiểu biết có thể được rút ra — về mặt này, mọi tri thức đều là hoặc lý tính hoặc kinh nghiệm; 2) Theo nguồn gốc chủ quan của chúng, nghĩa là theo cái cách thức cá nhân có thể tiếp thu được hiểu biết — theo quan điểm này, tri thức sẽ là hoặc lý tính hoặc lịch sử, bất kể nó bắt nguồn từ đâu. Như vậy, một hiểu biết có thể là lịch sử về mặt chủ quan, nhưng lại là lý tính về mặt khách quan.
Trong một số ngành tri thức lý tính, việc chỉ biết chúng về mặt lịch sử là có hại; trong những ngành khác, điều này là không quan trọng. Ví dụ, người hoa tiêu biết các quy tắc điều hướng hàng hải về mặt lịch sử từ các biểu đồ của mình, và điều đó là đủ đối với anh ta. Nhưng nếu một luật gia chỉ có tri thức luật pháp về mặt lịch sử, ông ta hoàn toàn không đủ tư cách để làm thẩm phán, càng không thể làm nhà lập pháp.
Từ sự phân biệt giữa tri thức lý tính khách quan và chủ quan, rõ ràng là một người có thể học triết học ở một khía cạnh nào đó, tới một mức độ nào đấy, mà vẫn không có khả năng triết lý. Do đó, một người muốn trở thành triết gia đích thực, phải tự rèn luyện sử dụng lý trí của mình một cách tự do và tự chủ[2], chứ không chỉ là sự bắt chước, hay nói cách khác, một cách máy móc.
Toán học và Triết học
Ta đã định nghĩa tri thức lý tính là thứ tri thức từ các nguyên lý, từ đó suy ra rằng nó phải là tiên nghiệm. Thế nhưng có hai nhánh tri thức, tuy đều là tiên nghiệm cả, nhưng vẫn có nhiều khác biệt quan trọng giữa chúng với nhau — đấy là Toán học và Triết học.
Người ta thường khẳng định rằng Toán học và Triết học được phân biệt với nhau bởi bản chất của đối tượng ở mỗi bên; Toán học xử lý Lượng (số lượng, đại lượng)[3], còn Triết học xử lý Phẩm. Điều này là hoàn toàn không đúng. Sự phân biệt các khoa học này không thể do đối tượng: triết học bao trùm mọi vật, trong đó có cả những lượng, và toán học cũng có phần áp dụng cho vạn vật, trong chừng mức mọi vật đều có mặt nào đấy là lượng. Khác biệt đặc thù giữa hai khoa học này là chúng thuộc về hai loại tri thức lý tính khác nhau, hay nói cách khác, chính sự sử dụng lý trí khác nhau trong toán học và triết học đã tạo nên sự khác biệt giữa hai bên. Triết học là tri thức lý tính từ khái niệm đơn thuần; ngược lại, Toán học là tri thức lý tính từ sự kiến tạo khái niệm.
Chúng ta xây dựng khái niệm khi ta hình dung chúng qua trực giác tiên nghiệm chứ không nhờ tới kinh nghiệm, hoặc khi ta hình dung bằng trực giác cái đối tượng tương ứng với khái niệm ta có về nó. Nhà toán học không bao giờ có thể sử dụng lý trí của mình thông qua các khái niệm đơn thuần, cũng như triết gia không thể sử dụng lý trí của mình thông qua việc xây dựng các khái niệm. Trong toán học, chúng ta sử dụng Lý trí một cách cụ thể; tuy nhiên, trực giác không phải là kinh nghiệm, mà ta biến một cái tiên nghiệm nào đó thành đối tượng của trực giác.
Như vậy, ở đây, như ta thấy, toán học có lợi thế hơn triết học ở chỗ tri thức toán học là do trực quan; ngược lại, tri thức triết học là do suy diễn. Và lý do khiến chúng ta phải xử lý các lượng nhiều hơn trong toán học chính là vì chúng có thể được tạo lập tiên nghiệm trong trực giác; trong khi ngược lại, các phẩm chất không thể được hình dung trong trực giác.
Triết học theo quan điểm Kinh viện
Như vậy, triết học là hệ thống các nhận thức triết học hay tri thức lý tính từ khái niệm. Đấy là quan niệm kinh viện về khoa học này. Nhưng theo quan niệm thế gian hay thế nhân (Weltbegriffe)[4] về nó, triết học là khoa học về các mục đích cuối cùng của lý trí con người. Quan niệm cao quý này mang lại phẩm giá, tức là giá trị tuyệt đối, cho triết học. Và thực tế là, chỉ triết học mới có giá trị nội tại, và là cái đầu tiên mang lại giá trị cho mọi ngành tri thức khác.
Cái câu hỏi, cuối cùng, luôn luôn được đặt ra là: a) Triết lý (philosophieren, philosophize, philosopher) có ích lợi gì cho ta?; b) Mục đích của triết học là gì? Ngay cả khi ta xem nó như một khoa học, theo quan điểm của Nhà trường (kinh viện)?
Trong nghĩa kinh viện, triết học chỉ nhắm đến kỹ năng (Geschicklichkeit, skill, habilité); ngược lại, trong quan niệm thế gian, nó còn hướng đến tiện ích (Nützlichkeit, utility, utilité). Do đó, ở khía cạnh trước, triết học là một khoa học về kỹ năng; ở khía cạnh sau, nó là một khoa học về trí tuệ; triết học là pháp gia của lý trí; cho nên triết gia không phải là một nghệ nhân, mà là nhà lập pháp, của lý trí.
Nghệ nhân của lý trí, hay như lối nói của Sōkratēs, kẻ yêu ý kiến (philodoxos)[5] chỉ phấn đấu vì tri thức tư biện, mà không quan tâm xét xem thứ tri thức này đóng góp được bao nhiêu vào mục đích cuối cùng của lý trí con người: y đưa ra các quy tắc sử dụng lý trí cho bất kỳ một mục đích nào. Nhà triết học thực tiễn, người thầy dạy Trí tuệ (Weisheit, wisdom, sagesse) bằng học thuyết và ví dụ, mới là triết gia đích thực. Vì triết học là (l)ý tưởng về một trí tuệ hoàn hảo, cho ta thấy mục đích cuối cùng của lý trí con người.
Theo quan niệm kinh viện, triết học bao gồm hai phần: thứ nhất, một kho tri thức lý tính đầy đủ; và thứ hai, một kết nối có hệ thống các bộ phận của kho tri thức này, hoặc sự kết hợp chúng thành ý tưởng về một tổng thể.
Triết học không chỉ là một kết cấu có hệ thống chặt chẽ như vậy, mà nó còn là khoa học duy nhất, và theo đúng nghĩa là khoa học nhất, có một kết nối được hệ thống hoá với mọi khoa học, và mang lại sự thống nhất có hệ thống cho mọi khoa học khác.
Triết học theo quan niệm thế gian
Tuy nhiên, theo quan niệm thế gian (Weltbegriff và in sensu cosmico, mundane, cosmique), thì triết học cũng có thể được gọi là khoa học về những châm ngôn cao nhất của sự sử dụng lý trí, và hãy hiểu châm ngôn ở đây như nguyên tắc nội tại của sự lựa chọn giữa các mục đích khác nhau của chúng ta.
Như vậy, theo nghĩa sau, triết học là khoa học về quan hệ của mọi thứ tri thức, và của mỗi cách sử dụng lý trí, với mục đích cuối cùng của lý trí con người mà, với tư cách là cái tối cao, mọi mục đích khác phải tuỳ thuộc vào nó, và phải kết hợp với nó thành cái đơn nhất.
Theo nghĩa này, lĩnh vực triết học có thể được tóm thâu vào bốn câu hỏi sau: 1) Tôi có thể biết gì? ; 2) Tôi phải làm gì? ; 3) Tôi có thể hy vọng gì? ; 4) Con người là gì?
Siêu hình học trả lời cho câu hỏi đầu tiên, Đạo đức học cho câu hỏi thứ hai, Tôn giáo cho câu hỏi thứ ba, và Nhân học cho câu hỏi thứ tư. Thế nhưng trên thực tế, ta có thể quy giản tất cả vào nhân học, bởi vì ba câu hỏi đầu đều liên quan tới câu cuối cùng.
Do đó, triết gia phải có khả năng xác định: 1) Nguồn gốc tri thức của con người; 2) Mức độ sử dụng có thể và hữu ích của tri thức; và cuối cùng 3) Giới hạn của lý trí. Vấn đề cuối cùng vừa là quan trọng, vừa là khó khăn nhất, nhưng lại là điều mà kẻ yêu ý kiến không quan tâm.
Triết gia phải có hai phẩm chất chính yếu. 1) Biết trau dồi khả năng và tài năng, để sử dụng chúng cho nhiều mục đích khác nhau. 2) Sự sẵn sàng và kỹ năng sử dụng mọi phương tiện cho bất kỳ mục đích nào có thể được lựa chọn. Cả hai phải được hợp nhất; vì nếu không có tri thức, người ta không bao giờ có thể trở thành triết gia, nhưng tri thức đơn thuần cũng không bao giờ tạo nên một triết gia. Trừ phi có sự kết hợp thích đáng tri thức và kỹ năng thành một thể thống nhất, và sự ngự trị hài hoà song song của một trí tuệ sáng suốt với những mục đích cao cả nhất của lý trí con người.
Triết lý và Triết học
Không ai có thể tự gọi mình là triết gia nếu không thể triết lý. Thế nhưng một cá nhân chỉ có thể học triết lý bằng sự thực hành, và sự sử dụng độc lập lý trí của chính mình.
Vậy thì, chúng ta phải học triết lý như thế nào? Mọi nhà tư tưởng triết gia đều xây dựng công trình riêng của mình trên đống đổ nát của kẻ khác, có thể nói như vậy; nhưng chưa từng có thứ gì được xây dựng mà có thể tồn tại lâu dài trong mọi bộ phận của nó. Do đó, ta không thể học triết học, dù chỉ bởi lý do này, là triết học chưa hề tồn tại. Nhưng cứ giả sử rằng hiện nay một nền triết học như vậy đã thực sự tồn tại đi nữa, thì không một ai có thể tự cho rằng mình là triết gia sau khi đã học nó, vì thứ tri thức đương sự nhận được vẫn chỉ mang tính lịch sử chủ quan.
Trong Toán học thì khác. Ở một mức độ nào đó, khoa học này có thể được học; bởi vì trong toán học, những bằng chứng đều hiển nhiên tới mức mọi người đều có thể tin chắc vào chúng; hơn nữa, chính nhờ tính hiển nhiên của nó, mà toán học có thể được xem là một khoa học chắc chắn và luôn luôn ổn định.
Ngược lại, người muốn học triết lý phải xem mọi hệ thống triết học chỉ như một lịch sử của sự sử dụng lý trí, đồng thời là một đối tượng thực tập kỹ năng triết lý cho mình.
Do đó, như một nhà tư tưởng độc lập, triết gia đích thực phải sử dụng lý trí của mình một cách tự do và độc lập, chứ không phải một cách nô lệ như kẻ chỉ biết bắt chước. Cũng không phải một cách biện chứng[6], như kẻ chỉ nhằm khoác cho mớ hiểu biết của mình cái vẻ ngoài của chân lý và trí tuệ hoàn hảo. Đấy là công việc xứng đáng cho những kẻ chỉ là biện sĩ; nhưng hoàn toàn không phù hợp với phẩm giá của triết gia, trong tư cách là người có hiểu biết thực sự và truyền dạy trí tuệ [theo nghĩa đã nói ở trên: cái (l)ý tưởng về một trí tuệ hoàn hảo, cho ta thấy mục đích cuối cùng của lý trí con người].
Vì khoa học chỉ sở hữu một giá trị nội tại thực sự khi nó là một Cơ quan của Trí tuệ. Nhưng trong tư thế này, đối với Trí tuệ, nó là điều kiện không thể thiếu; vì vậy ta có thể khẳng định rằng, nếu không có Khoa học, Trí tuệ chỉ là cái bóng của một sự hoàn hảo mà chúng ta sẽ không bao giờ đạt được.
Kẻ ghét khoa học, nhưng yêu trí tuệ, được gọi là người ghét lý luận (Misologie, misology, misologie). Sự thù ghét lý luận thường xuất phát từ tình trạng thiếu tri thức khoa học kết hợp với một thói hợm hĩnh nào đấy. Tuy nhiên, đôi khi nhiều người cũng rơi vào sai lầm này, mặc dù lúc đầu từng theo đuổi khoa học với sự cần mẫn và không ít thành công, bởi vì cuối cùng họ đã không cảm thấy thỏa mãn với tất cả những hiểu biết của họ.
Triết học là khoa học duy nhất có thể mang lại cho ta sự thỏa mãn nội tại này, bởi vì một cách nào đó, nó khép cái vòng tròn khoa học lại, và như vậy, chính từ triết học trước tiên mà các khoa học nhận được trật tự và sự kết hợp trong một tổng thể.
Chính vì vậy mà, để rèn luyện tư duy độc lập hay khả năng triết lý, ta phải chú ý nhiều hơn tới phương pháp sử dụng lý trí hơn là bản thân những mệnh đề mà chúng ta đã đạt được thông qua nó.
Immanuel Kant,
Logik – 1800
(Introduction to Logic, III,
London: Longmans & Green, 1885, tr. 12-17;
In: Emmanuel Kant: Oeuvres complètes,
Paris, Arvensa, 2020, tr. 3800-3805)
[1] Immanuel Kant: Kỷ Yếu 300 Năm, 1724-2024 – Vén Mây Giữa Trời. Ban chủ biên: Trần Văn Đoàn, Lưu Hồng Khanh, Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Xuân Xanh. Hà Nội, Nxb Hồng Đức, 2025, 879 tr. Xin trân trọng giới thiệu.
[2] Xem thêm trên trang mục Lô-gic Học và Toán Học khi có thể tham khảo: René Descartes, Nhà Toán Học Tự Chủ Trước Lịch Sử Toán Học.
[3] Aristotelēs định nghĩa lượng là «cái có thể chia hết cho hai hay cho nhiều phần phân ước (parties aliquotes) hơn» [Metaphysique 1020a, 5]. Phép chia là phép toán cho phép xác định các thứ lượng (quantités), và là cơ sở của sự phân loại mà ông đề xuất: nếu lượng là rời rạc (discret), và do đó có thể đếm được, thì nó là một con số (nombre); nếu lượng là liên tục, và do đó có thể đo được, thì nó là một đại lượng (grandeur). Con số là thứ lượng chỉ có thể được đem ra chia một số lần hữu hạn, với đơn vị là giới hạn của một phép chia như vậy. Đại lượng là thứ lượng có thể đem ra chia không hạn định số lần chia mà vẫn không mất đi bản chất của nó; trong trường hợp thứ hai này, nói rằng phép chia là không có giới hạn có nghĩa là nói nó không có đơn vị đo lường «tự nhiên». Xem trên trang mục Lô-gic Học và Toán Học khi có thể tham khảo: Guillermina Waldegg, Con Số Và Đại Lượng Trong Toán Học Hy Lạp.
[4] Trong bản tiếng Anh, T. K. Abbott dịch Weltbegriff là mundane, và giải thích thêm rằng từ này chỉ điều gì phải liên quan đến tất cả mọi người. Ở đây, chúng tôi dịch là [quan niệm] thế gian hay thế nhân.
[5] Do sự kết hợp các từ Hy Lạp philo và doxa (ý kiến).
[6] Xem thêm trên trang mục Lô-gic Học và Toán Học khi có thể tham khảo: Aristotelēs, Về Hai Thứ Lý Luận Biện Chứng.