CN : 15-6-2025 |
C2 |
KHÁI NIỆM LÔ-GIC HỌC
(1800)
Tác giả: Immanuel Kant*
Bản tiếng Anh: Thomas Kingsmill Abbott
Bản tiếng Pháp: Joseph Tissot & Magalie Schwartzerg
Người dịch: Nguyễn Văn Khoa
*
Bản dịch trích đoạn dưới đây đã được thực hiện cho quyển Immanuel Kant: Kỷ Yếu 300 Năm, 1724-2024 – Vén Mây Giữa Trời[1], nay được cập nhật và thêm một số chú thích cho trang mạng này, không có trong quyển kỷ yếu.
Quyển Logik của Kant được xuất bản năm 1800 (Kant mất năm 1804). Ngoài phần Dẫn Nhập – Begriff der Logik – được trích dịch ở đây, nó là một quyển Toát Yếu về Lô-gic học học đường phổ thông, vì cho loạt bài giảng của mình về môn học này (1755-1796) ở Königsberg, theo thông lệ đương thời, Kant đã dùng quyển Auszug aus der Vernunftlehrer (1752) của Georg Friedrich Meier (1718-1777) như tài liệu hướng dẫn, với những chú thích, nhận xét, phê phán, xen kẽ riêng của ông như phần bổ túc. Từ những bô sung phong phú sau, quyển Logik đã được biên soạn và xuất bản bởi học trò của ông, Gottlob Benjamin Jäsche (1762-1842), theo yêu cầu của chính Kant. Bản dịch tiếng Việt này được thực hiện từ bản Anh ngữ, Introduction to Logic của Thomas K. Abbott (1885), có đối chiếu với bản tiếng Pháp, Idée de Logique (1862) của Joseph Tissot.
Trong lời giới thiệu của dịch phẩm sau, Tissot viết: «Ít tác phẩm nào có được sự ngắn gọn đáng kể như quyển Logik của Kant. Chỉ riêng phần Dẫn Nhập đã là một tác phẩm hàng đầu. Tuy không có tính độc đáo và tầm hiệu quả như phần trước, phần thân của chuyên luận cũng là một quyển Toát Yếu hoàn chỉnh, nói chung là rất rõ ràng và luôn luôn sâu sắc về Lô-gic học nhà trường...». Tuy nhiên hẳn không ít độc giả bi quan vẫn có thể thắc mắc: với các chi tiết trong lịch sử hình thành của nó như đã được tường thuật ở trên (Meier, Jäsche), một mặt, liệu quyển Logik có thật sự phản ánh đúng đắn tư tưởng của Kant chăng?, và mặt khác, liệu ngày nay nó còn giá trị khoa học gì không? Ngoài các sự kiện là quyển sách không mang dấu vết gì của Meier, và Jäsche đã hoàn tất vai trò nhà xuất bản một cách tốt đẹp, quyển Logik còn cho ta thấy, thông qua những khái niệm được dùng trong sách, và những chú thích chúng tôi thêm vào bản dịch cho độc giả người Việt bên dưới, sự chặt chẽ của cả hệ thống triết lý phê phán của Kant, nói chung. Mặt khác, riêng phần giới thiệu này cũng sẽ xác định, bản thân nó có thể là bài dẫn nhập xuất sắc cho bất kỳ một giáo trình nào xuất bản trong thế kỷ XX về lô-gic học phổ quát – bất chấp sự kiện là chính Kant đã không hề tiên đoán được sự thoát xác của khoa lô-gic học khỏi cái hình thức tam đoạn luận của Aristotelēs, và đã để lại trên chủ đề này một nhận định từng gây nhiều tranh cãi ngược xuôi («Từ Aristotelēs... lô-gic học đã không thể tiến tới dù chỉ một bước nào, và như vậy, có mọi nét ngoại hiện như một học thuyết khép kín và đã đầy đủ» – Bài Tựa PPLTTT, 1787).
Để giải thích các thuật từ trong bản tiếng Việt, chúng tôi đã trích và phỏng dịch chúng từ quyển The Kant Dictionary của Lucas Thorpe (London, Bloomsbury, 2015). Chúng tôi cũng có tham khảo thêm một quyển từ điển quan trọng khác về thuật ngữ của Kant – A Kant Dictionary của Howard Caygill, 1995 – đã được công phu dịch sang Việt ngữ dưới tựa đề là Từ Điển Triết Học Kant (TĐTHK, nxb Tri Thức và Phương Nam, 2016), bởi một tập thể dịch giả dưới sự hiệu đính của GS Bùi Văn Nam Sơn, xin trân trọng giới thiệu. Tuy nhiên, vì thuật ngữ – đặc biệt trong lĩnh vực triết học trong nước – còn là một vấn đề thường thiếu thống nhất (cho đến nay, chỉ dựa chủ yếu trên sáng kiến cá thể, chứ không do môt cơ quan có thẩm quyền được công nhận nào thực hiện), những thuật từ dùng trong bản dịch này, cũng như trong mọi bản dịch thuộc mọi lĩnh vực khác trên trang mạng TH3, đều chỉ là những đề xuất tạm thời của cá nhân người dịch, như một chọn lựa chủ quan, ngẫu nhiên và vô tư, có thể hoặc giống hoặc khác với đề xuất của các tác giả hay dịch giả khác, nhưng luôn luôn chỉ nhằm được thảo luận và hoàn chỉnh.
Cuối cùng, để độc giả dễ theo dõi bản dịch hơn, chúng tôi đã thêm vào đây một số tiểu tựa không có trong nguyên bản.
*
Thiên nhiên là sự kết hợp những hiện tượng tuân theo quy luật
Mọi thứ trong thế giới tự nhiên, dù là linh hoạt hay vô tri, đều diễn ra theo quy luật[2], mặc dù không phải lúc nào chúng ta cũng biết những quy luật ấy. Nước rơi theo luật hấp dẫn, và sự vận động cũng diễn ra theo quy luật ở động vật. Cá trong nước, chim trong không khí, chúng đều di chuyển theo quy luật. Thực vậy, toàn thể thiên nhiên không là gì khác ngoài sự kết hợp những hiện tượng tuân theo quy luật, chứ không hề có bất kỳ một sự bất thường nào ở bất cứ nơi đâu. Mỗi khi nghĩ mình tìm thấy bất kỳ một thứ gì như vậy, chúng ta chỉ có thể nói rằng chẳng qua là vì ta đã không biết những quy luật chi phối chúng mà thôi.
Sự vận hành những khả năng[3] của chúng ta cũng diễn ra theo các quy luật nhất định mà ban đầu ta tuân theo một cách vô thức, cho đến khi đạt được hiểu biết[4] về chúng nhờ sự sử dụng liên tục và lâu dài những khả năng (quan năng) của mình, và cuối cùng làm cho chúng trở nên quen thuộc, đến nỗi chúng ta phải trả giá bằng nhiều rắc rối khi buộc phải nghĩ về chúng một cách trừu tượng. Ngữ pháp phổ quát, cái được xem là hình thức ngôn ngữ nói chung, là một ví dụ như vậy. Hơn nữa, người ta còn có thể nói mà không biết ngữ pháp; tuy nhiên, kẻ nào nói mà không biết nó cũng thực sự có một ngữ pháp, và phát biểu theo các quy luật của nó, mặc dù không biết gì về chúng hay không hề nhận thức được điều này.
Mọi khả năng của ta đều bị chi phối trong hoạt động của chúng bởi các quy luật mà chúng ta có thể tìm tòi nghiên cứu – đặc biệt là giác năng[5], vì giác năng phải được xem là nguồn gốc, và là cái khả năng quan niệm những quy luật nói chung. Và bởi cũng giống như cảm tính (cảm năng)[6] là cái khả năng của những trực giác[7], giác năng là cái khả năng của tư duy, nghĩa là của sự đặt để những biểu hiện cảm giác dưới các quy luật. Do đó, nó có xu hướng tìm kiếm những quy luật, và hài lòng khi đã tìm thấy chúng. Như vậy – vì giác năng là nguồn gốc của các quy luật – nên vấn đề là ta phải biết chính bản thân giác năng tuân theo những quy luật nào? Bởi vì hiển nhiên là chúng ta không thể suy nghĩ hay sử dụng giác năng của mình một cách nào khác hơn là sự tuân thủ một số quy luật nào đấy. Thế nhưng liệu ta có thể xem tư duy như một đối tượng biệt lập chăng, nghĩa là có thể quan niệm những quy luật này một cách trừu tượng, không có một áp dụng nào chăng? Và những quy luật ấy là gì?
Quy luật thiết yếu, quy luật ngẫu nhiên
Mọi quy luật mà giác năng tuân theo đều là hoặc thiết yếu hoặc ngẫu nhiên. Loại trước là những quy luật mà nếu không có thì sẽ không một hoạt động nào của giác năng có thể được thực hành cả; loại sau là những quy luật mà nếu không có thì một số hoạt động nhất định của giác năng sẽ không thể diễn ra. Những quy luật ngẫu nhiên phụ thuộc vào một đối tượng tri thức xác định thì cũng đa dạng như chính những đối tượng ấy. Ví dụ, có một thực hành giác năng riêng trong toán học, trong siêu hình học, trong đạo đức học, v. v... Những quy luật của sự thực hành xác định riêng biệt này của giác năng trong các khoa học trên đều là ngẫu nhiên, bởi vì sự kiện tôi nghĩ về đối tượng này hoặc đối tượng kia trong quy chiếu về chúng chỉ là điều ngẫu nhiên.
Tuy nhiên, nếu ta gạt sang một bên mọi tri thức ta có thể vay mượn từ các vật thể, mà chỉ đơn giản suy ngẫm về sự thực hành giác năng nói chung, thì chúng ta sẽ khám phá ra những quy luật, tuyệt đối thiết yếu dưới mọi quan hệ, và độc lập với bất kỳ một đối tượng tư duy cụ thể nào, bởi vì nếu không có chúng thì chúng ta chẳng thể suy nghĩ chi cả. Do đó, những quy luật này có thể được nhận thức tiên thiên, nghĩa là độc lập với mọi kinh nghiệm, bởi vì chúng chỉ chứa đựng những điều kiện sử dụng giác năng nói chung, dù thuần túy hay thực nghiệm, mà không phân biệt những đối tượng của nó. Cũng do đó, các quy luật tư duy phổ quát và thiết yếu chỉ có thể liên quan tới hình thức, chứ tuyệt nhiên không liên quan đến chất liệu của nó. Như vậy, cái khoa học chứa đựng những quy luật phổ quát và thiết yếu này chỉ đơn giản là một khoa học về hình thức của tư duy nơi ta. Và chúng ta có thể quan niệm khả năng có một khoa học như vậy, giống như ta đã từng quan niệm một ngữ pháp phổ quát chỉ chứa đựng đơn thuần cái hình thức của ngôn ngữ nói chung, chứ không có những từ vốn là chất liệu của các ngôn ngữ.
Cái khoa học về những quy luật thiết yếu của giác năng và lý trí (trí năng, lý tính) nói chung, hay điều cũng có cùng một nghĩa, cái khoa học chỉ đơn thuần về hình thức của tư duy nói chung này, ta gọi nó là Lô-gic học[8].
Lô-gic học là nền tảng, không phải là công cụ của khoa học
Vì Lô-gic học là một khoa học mà quy chiếu duy nhất là tư duy nói một cách tổng quát, hoàn toàn không liên quan gì đến mọi thứ sự vật vốn là chất liệu của tư tưởng, cho nên ta phải xem:
1 - Lô-gic học là cơ sở của mọi ngành khoa học khác, và là phần dự bị (propaedeutic, propédeutique) cho mọi sử dụng giác năng. Nhưng cũng chính vì nó hoàn toàn bỏ qua mọi vật thể đối tượng, nên :
2 - Lô-gic học không thể là một công cụ (organon)[9] cho các khoa học. Theo như chúng tôi hiểu, thì một công cụ phải là sự chỉ dẫn cách thức cần được áp dụng nhằm đạt được tri thức trong một ngành cụ thể nào đấy. Điều đó đòi hỏi rằng tôi đã biết đối tượng của thứ tri thức sẽ được tạo ra bằng một số quy luật này. Do đó, lô-gic học đơn thuần không thể là một công cụ cho các khoa học, bởi vì một công cụ giả định sự hiểu biết chính xác về đối tượng và nguồn gốc của mỗi khoa học. Chính vì vậy mà toán học, chẳng hạn, là một công cụ tuyệt vời, vì nó là cái khoa học chứa đựng các nguyên tắc mở rộng tri thức của chúng ta trong tương quan với một cách sử dụng lý trí đặc thù nào đấy. Ngược lại, với phẩm cách là phần dự bị cho mọi sử dụng giác năng và lý trí, lô-gic học không thể xen trộn vào các khoa học, cũng không thể đoán biết trước chất liệu của chúng. Do đó, lô-gic học chỉ là một Kỹ thuật Lý trí phổ quát (Canonica Epicuri), thứ nghệ thuật làm cho bất kỳ ngành tri thức nào cũng phải phù hợp với cái hình thức của giác năng; chỉ ở đây, và trong chừng mức này, nó mới có thể được gọi là công cụ, một công cụ không phục vụ cho sự mở rộng tri thức, mà chỉ nhằm phê phán và chỉnh sửa tri thức của chúng ta.
3. Vì Lô-gic học là một khoa học về các quy luật thiết yếu của tư duy, nếu không có chúng thì không một sự sử dụng giác năng và lý trí nào có thể xảy ra, do đó chúng là những điều kiện duy nhất nhờ đó giác năng có thể và bắt buộc phải nhất quán với chính nó – quy luật thiết yếu và điều kiện cần cho sự sử dụng nó đúng đắn – nên Lô-gic học là một bộ Chuẩn tắc6. Và vì là chuẩn mực của giác năng và lý trí, nó không thể vay mượn bất kỳ nguyên tắc nào, từ bất kỳ hoặc khoa học hoặc kinh nghiệm nào; nó không được chứa đựng gì khác ngoài các quy luật tiên nghiệm, vốn là thiết yếu, và áp dụng được cho sự hiểu biết một cách phổ quát.
Thật ra, một số nhà lô-gic học từng giả định các nguyên tắc tâm lý đã có trước trong môn học. Nhưng đưa các nguyên tắc loại này vào lô-gic học cũng không thích hợp như khi ta rút khoa đạo đức học ra từ cuộc sống. Nếu ta phải rút các quy luật lô-gic ra từ tâm lý học, nghĩa là từ những quan sát về giác năng của mình, chúng ta sẽ chỉ thấy tư duy diễn ra như thế nào, và nó bị ảnh hưởng bởi những trở ngại và điều kiện chủ quan khác nhau ra sao; điều này sẽ chỉ dẫn ta đến thứ tri thức về các quy luật ngẫu nhiên. Nhưng trong Lô-gic học, vấn đề không phải là về những quy luật ngẫu nhiên, mà là về các quy luật thiết yếu; không phải là chúng ta thực sự suy nghĩ như thế nào, mà là chúng ta phải suy nghĩ ra sao. Do đó, các quy tắc của Lô-gic học không được rút ra một cách ngẫu nhiên mà một cách thiết yếu, từ sự sử dụng giác năng tự thân, không chút tâm lý nào. Trong Lô-gic học, ta không tự hỏi giác năng tồn tại và tư duy như thế nào, nó đã từng tư duy như thế nào cho đến nay, mà tự hỏi nó phải tiến hành như thế nào khi tư duy. Nhiệm vụ của Lô-gic học là dạy chúng ta cách sử dụng lý trí[10] một cách đúng đắn, nghĩa là sao cho sự sử dụng giác năng nhất quán với chính nó.
Các thuộc tính của Lô-gic học
Từ định nghĩa chúng tôi đã đưa ra về Lô-gic học, các thuộc tính thiết yếu khác của khoa học này có thể được suy ra. Cụ thể là:
4. Cả về hình thức lẫn chất liệu, Lô-gic học là một khoa học duy lý: bởi vì các quy luật của nó không bắt nguồn từ kinh nghiệm, đồng thời, bởi vì đối tượng của nó là lý trí. Do đó, Lô-gic học là một sự tự nhận thức (self-cognition) của giác năng và lý trí, tuy nhiên, không phải là về năng lực của chúng đối với đối tượng, mà chỉ đơn giản là về hình thức. Trong Lô-gic học, tôi không hỏi, chẳng hạn: giác năng biết gì và nó có thể biết được bao nhiêu, hoặc thứ tri thức nó đạt tới vươn ra được bao xa – vì đấy sẽ là sự tự nhận thức về việc sử dụng vật chất của giác năng, và do đó thuộc về Siêu hình học. Trong Lô-gic học, chỉ có một câu hỏi là: Làm thế nào giác năng tự biết bản thân nó?
5. Cuối cùng, như một khoa học duy lý cả về hình thức lẫn chất liệu, Lô-gic học còn là một Học thuyết hay lý thuyết đã được chứng minh. Vì nó không quan tâm tới sự sử dụng phổ biến và chỉ mang tính thực nghiệm của giác năng và lý trí, mà quan tâm duy nhất đến các quy luật phổ quát và thiết yếu của tư duy, nên nó luôn luôn dựa trên các nguyên lý tiên nghiệm, từ đấy mọi quy luật của nó có thể được rút ra và chứng minh như thứ định luật mà mọi tri thức của lý trí phải tuân theo.
Lô-gic học và Mỹ học
Nhờ đặc trưng này, Lô-gic học cơ bản được phân biệt với Mỹ học[11], vốn chỉ là một phê phán luận (criticism) về Sở thích (Taste), không có chuẩn tắc (quy luật), chỉ có hình thức thẩm định (mô hình, kiểu mẫu, thước đo) mà nội dung là sự phù hợp chung chung về ý kiến. Như vậy, Mỹ học chứa đựng các quy tắc về sự phù hợp của nhận thức với các quy tắc của cảm tính; trái lại, Lô-gic học chứa đựng các quy luật về sự phù hợp của nhận thức với các quy luật của giác năng và lý trí. Mỹ học chỉ có những quy tắc thực nghiệm, và do đó không bao giờ có thể là một khoa học hay học thuyết, nếu ta hiểu học thuyết là một chỉ dẫn xác quyết dựa trên các quy tắc tiên nghiệm, trong đó chúng ta phân biệt mọi thứ bằng giác năng, không dựa trên một thông tin thu nhận từ kinh nghiệm nào, và nó cung cấp cho ta các quy tắc mà nếu ta tuân theo thì sự hoàn chỉnh mong muốn sẽ được bảo đảm. Nhiều người, đặc biệt là các nhà hùng biện và nhà thơ, đã nỗ lực quy giản sở thích vào một hệ thống lý tính, nhưng họ chưa bao giờ có thể đạt tới một phán đoán quyết định về nó. Triết gia Baumgarten[12] ở Frankfurt đã từng thiết kế một dự án cho Mỹ học như khoa học. Nhưng Home[13] đã gọi nó chính xác hơn là một thứ Phê phán luận Mỹ học, bởi vì nó không cung cấp các quy luật trước kinh nghiệm thích đáng nào để phán định như trong Lô-gic học, mà ngược lại, chỉ rút các quy luật của nó ra sau kinh nghiệm, rồi khái quát hóa chúng bằng cách so sánh những quy luật thực nghiệm, nhằm qua đó nhận biết cái đẹp hơn so với cái kém đẹp.
Như vậy, Lô-gic học không chỉ đơn thuần là một phê phán luận; nó là một bộ Chuẩn tắc được dùng để phê phán sau đó, nghĩa là như quy tắc nhằm đánh giá mọi sử dụng giác năng, dù chỉ liên quan tới tính đúng đắn của chúng về hình thức mà thôi, bởi vì nó cũng chẳng phải là một công cụ gì hơn là ngữ pháp phổ quát.
Lô-gic học phổ thông & Lô-gic học siêu nghiệm
Mặt khác, vì là phần dự bị cho mọi sử dụng giác năng, Lô-gic học phổ thông được phân biệt với Lô-gic học siêu nghiệm[14], nơi bản thân đối tượng được quan niệm như đối tượng duy nhất của giác năng; trong khi Lô-gic học phổ thông áp dụng phổ quát cho mọi đối tượng.
Lô-gic học là gì?
Bây giờ, nếu chúng ta tập hợp mọi thuộc tính thiết yếu đã được trình bày nhằm xác định hoàn toàn, trọn vẹn khái niệm Lô-gic học, ta phải đưa ra định nghĩa sau đây về nó:
Lô-gic học là một khoa học duy lý, cả về hình thức lẫn chất liệu của nó; một khoa học tiên nghiệm về các quy luật tư duy thiết yếu, tuy nhiên, không phải về bất kỳ một đối tượng cụ thể nào, mà về mọi đối tượng nói chung: do đó, nó là một khoa học về sự sử dụng đúng đắn giác năng và lý trí nói chung, nhưng không phải một cách chủ quan mà khách quan – nghĩa là nó không dựa trên các nguyên tắc thực nghiệm (tâm lý) để tìm hiểu xem giác năng thực sự suy nghĩ như thế nào, mà chính nó quy định giác năng phải suy nghĩ như thế nào, dựa trên các nguyên lý tiên nghiệm.
Immanuel Kant,
Begriff der Logik, In : Logik – 1800
(Conception of Logic, In: Introduction to Logic,
London: Longmans & Green, 1885, tr. 1-6;
Idée de la Logique, In: Emmanuel Kant: Oeuvres complètes,
Paris, Arvensa, 2020, tr. 3788-3793)
[1] Immanuel Kant: Kỷ Yếu 300 Năm, 1724-2024 – Vén Mây Giữa Trời. Ban chủ biên: Trần Văn Đoàn, Lưu Hồng Khanh, Bùi Văn Nam Sơn, Nguyễn Xuân Xanh. Hà Nội, Nxb Hồng Đức, 2025, 879 tr. Xin trân trọng giới thiệu.
[2] Từ dùng trong các văn bản: Regel, rule, règle. Có thể dịch là quy luật hay quy tắc (TĐTHK); ở đây tôi dùng quy luật, vì có quy chiếu về luật hập dẫn, và vì dựa trên ngữ cảnh, có thể nó chỉ là một thuật từ triết học nói chung hơn là một thuật từ đặc trưng của Kant. Dù sao, ở Kant, có sự phân biệt giữa quy tắc hay quy luật như đối tượng của giác năng với nguyên tắc (Grundsatz, principle, principe) như đối tượng của lý trí (Vernunft, reason, raison) – giác năng là khả năng quan niệm những quy tắc hay quy luật và khái niệm (Begriff, concept); lý trí là khả năng quan niệm những nguyên tắc và Ý niệm* (Idee, idea – xem thêm ở TĐTHK). Điều Kant muốn nói ở đây là, bên giác năng, khái niệm được vận dụng như một quy tắc để phân loại những vật thể, bằng cách chia một tập hợp vật thể bất kỳ nào thành hai nhóm: những cái có thể được đặt dưới khái niệm, và những cái không thể đặt. Bên lý trí, nhìn từ bối cảnh lý thuyết, nguyên tắc là một quy luật phổ biến có thể thực hiện chức năng của một tiền đề lớn trong một tam đoạn luận (như «tất cả mọi người đều phải-chết» chẳng hạn); nhìn từ bối cảnh thực tiễn, nguyên tắc là một quy luật thực tiễn có chức năng cai quản chọn lựa châm ngôn hành động lý tính của ta: cả hai thứ mệnh lệnh (Imperativ, imperative) nhất quyết (kategorischer, «hãy hành động sao cho châm ngôn ý chí của bạn lúc nào cũng đồng thời có thể có giá trị như một quy luật phổ quát») và giả thiết (hypothetisch, «nếu bạn muốn ... thì bạn...») đều là nguyên tắc theo nghĩa này.
[3] Từ dùng trong các văn bản: Kraft, faculty hay power, faculté. Có thể dịch là khả năng, năng lực, quan năng (TĐTHK). Ở đây chúng tôi dùng khả năng, vì trong văn cảnh, nó có thể: hoặc chỉ là một thuật từ triết học nói chung có từ thời Aristotelēs – khả năng đạt một mục đích hay một tiềm năng thay đổi có thể được thực hiện nhờ nghị lực hay năng lực (trong các bản tiếng Anh, T. Abbott dịch Kraft là faculty, J. Richardson là power); hoặc một thuật từ đặc trưng của Kant Trong các từ điển thuật ngữ dịch sang tiếng Việt của Kant, từ gốc của khả năng (quan năng, TĐTHK) là Fakultät, Vermögen – như vậy, có thể là trong quá trình nhận thức, Kant đã lần lượt dùng Kraft, Fakultät, rồi cuối cùng mới tới Vermögen chăng? Xin để vấn đề lại cho các chuyên gia. Dù sao, ở Kant, có sự phân biệt ba khả năng nhận thức (xem triển khai ở các từ liên quan bên dưới), có thể được dịch bằng 3 bộ ba sau: 1) cảm tính, giác năng, lý trí – giử truyền thống dịch sensibility là cảm tính, reason là lý trí; 2) cảm tính, giác tính, lý tính – ở đây, vấn đề là lý tính đã được dùng để dịch rationality cho đến nay); 3) cảm năng, giác năng, trí năng. Cảm tính (cảm năng) là khả năng nhờ nó vật thể cho trong trực giác có thể được nhận biết; giác năng (giác tính) là khả năng nhờ nó vật thể đó được tư duy và đặt dưới khái niệm; lý trí (trí năng, lý tính) là khả năng lập luận dựa trên nguyên tắc, như trong tam đoạn luận chẳng hạn (từ ‘tam đoạn luận’ trong tiếng Đức là ‘Vernunftschluss’, có nghĩa là ‘kết luận của lý trí’). Sự phân biệt ba khả năng này tương ứng với sự phân biệt (a) vật thể, (b) khái niệm, và (c) nguyên tắc.
[4] Từ dùng trong các văn bản: Erkenntnis, cognition, connaissance. Có thể dịch là sự hiểu biết hay nhận thức (TĐTHK). Ở đây, tôi dùng cả hai, tuỳ ngữ cảnh. Kant cho rằng nhận thức và sự hiểu biết của con người bao hàm sự phối hợp cả ba khả năng nói ở trên: cảm tính, giác năng, lý trí (lý tính, TĐTHK). Bởi vì, như Kant từng tuyên bố: không có cảm tính, thì không sự vật cho trong trực giác nào được nhận biết; không có giác năng, thì không sự vật nào có thể được tư duy và đặt dưới khái niệm – mà tư tưởng không có nội dung là tư tưởng rỗng, trực giác thiếu khái niệm là trực quan mù; không có lý trí, thì không có sự thống nhất tư tưởng và sự hệ thống hoá những khái niệm, không có những suy diễn dựa trên nguyên tắc. Mặt khác, ở Kant, vì nhận thức và sự hiểu biết cũng được kết nối mật thiết với chân lý, và vì chân lý cũng bao hàm sự thống nhất của một ý tưởng với đối tượng của nó, nên các phán đoán phân tích thuần tuý không mang lại cho ta hiểu biết và, nói cho thật chặt chẽ, thậm chí còn là không đúng, bởi vì luôn luôn có khả năng là các khái niệm được đề cập trong một phán đoán phân tích thuần tuý không quy chiếu về một vật thể nào cả, nên tư tưởng là rỗng trong trường hợp này.
[5] Từ dùng trong các văn bản: Verstand, understanding, entendement. Có thể dịch là giác năng hay giác tính (TĐTHK). Ở đây chúng tôi dùng giác năng. Giác năng là khả năng quan niệm những quy tắc hay quy luật, khả năng phán đoán bằng khái niệm (Begriff, concept). Chỉ thông qua các phán đoán, bao hàm sự đặt để những sự vật cho trong trực giác và được nhận biết bởi cảm tính dưới các khái niệm của giác năng, mà những sự vật này có thể được tư duy. Theo Kant, kinh nghiệm và hiểu biết đòi hỏi cả giác năng lẫn cảm tính, bởi vì kinh nghiệm bao hàm nhận thức về các sự vật, và điều này bao hàm sự đặt để những sự vật được nhận biết trong cảm tính dưới các khái niệm. Như vậy, không có cảm tính thì không có sự vật nào được nhận biết; không có giác năng thì không có sự vật nào được tư duy.
[6] Từ dùng trong các văn bản: Sinnlichkeit, sensibility, sensibilité. Có thể dịch là cảm tính, cảm năng (TĐTHK). Cảm tính là cái khả năng qua đó những sự vật cho trong trực giác được nhận biết. Theo Kant, không gian và thời gian là các mô thức của trực giác nơi ta, nên chúng ta chỉ có trực quan về những sự vật có thể tồn tại trong không gian và/hay thời gian; nói cách khác, hai mô thức của trực quan cảm tính nơi con người là không gian (mô thức của giác quan bên ngoài) và thời gian (mô thức của giác quan bên trong). Như vậy, cảm tính nhất thiết phải có kích thước không gian-thời gian; hơn nữa, nó còn là một khả năng thụ động, bởi vì để có trực quan về một đối tượng nào đó, sự vật này phải được cho. Tuy nhiên, Kant nghĩ rằng trực giác về một sự vật qua cảm tính là thiết yếu cho nhận thức, bởi nếu không có cảm tính thì không sự vật cho trong trực giác nào được nhận biết, tư tưởng của ta sẽ rỗng và vô nghĩa. Như vậy, khác với các nhà siêu hình học duy lý đương thời, Kant lập luận rằng giác năng và lý trí không thể thực sự đem cho ta hiểu biết, nếu thiếu cảm tính.
[7] Từ dùng trong các văn bản: Anschauung, intuition, intuition. Có thể dịch là: trực giác, trực quan (TĐTHK). Ở đây, tôi dùng cả hai, tuỳ ngữ cảnh. Nói chung, trực giác là cái khả năng hay phương thức tiếp nhận đối tượng (sự vật, ý tưởng) tức thì, trực tiếp, không qua một trung giới nào, như thể nó được cho ta. Trong PPLTTT (1781, 1787), Kant lập luận rằng trực giác của con người bị hạn chế qua hai cách. Thứ nhất, cách duy nhất để ta có trực quan về một sự vật là bằng giác quan (khi nó tác động lên ta, nghĩa là quan hệ của ta với sự vật phần nào là thụ động), chứ hoạt động của trực giác không tạo ra sự vật là đối tượng của nó. Tất nhiên, ta có thể quan niệm một sinh vật mà trực giác là chủ động và sáng tạo (Kant gọi đấy là ‘trí tuệ trực giác (intuitiver Intellekt, intuitive Intellect)’, các nhà thần học gọi là Thượng Đế). Thứ hai, những sự vật duy nhất ta có thể biết tức thì đều chỉ tồn tại trong không gian và/hay thời gian (xem ct 6). Và cũng tất nhiên, ta có thể quan niệm những sự vật không tồn tại trong không gian và thời gian (Thượng Đế chẳng hạn), nhưng ta không thể có kinh nghiệm nào, thậm chí không thể biết là có hay không, những thứ ấy. Mặt khác, vì trong kinh nghiệm phải có sự nhận biết tức thì một sự vật, đồng thời sự vật đó phải được khái niệm hoá, Kant cũng cho rằng kinh nghiệm tất yếu phải bao gồm cả trực giác lẫn giác năng.
[8] Kant phân biệt lô-gic học phổ thông phổ quát (allgemeine, general, universelle – cụ thể là tam đoạn luận) với lô-gic học siêu nghiệm. Lô-gic học nói ở đây là lô-gic học phổ thông phổ quát, nó chỉ nghiên cứu cái hình thức của bản thân tư duy, một cách hoàn toàn trừu tượng, bên ngoài mọi quy chiếu về đối tượng vật thể; nghĩa là nó chỉ nhằm cung cấp cho ta các quy luật của tư duy, chứ không phải các quy luật của chân lý. Cốt lõi của lô-gic học phổ quát là quy luật không mâu thuẫn, nhưng nó chỉ cho ta một tiêu chuẩn tiêu cực về chân lý – một khái niệm không tự mâu thuẫn chỉ có nghĩa rằng nó có thể được tư duy (thinkable), chứ không có nghĩa rằng nó là đúng, bởi vì chân lý bao hàm sự thống nhất của một ý tưởng với đối tượng của nó, nên khái niệm là không đúng khi thật ra không có một sự vật nào tương ứng với nó cả. Như vậy, ở đây, Kant bác bỏ quan điểm cho rằng chúng ta có thể phát hiện ra chân lý về những vật tự thân (hữu thể, linh hồn, Thượng Đế...) chỉ bằng phương pháp phân tích khái niệm (như theo Christian Wolff* và trường phái siêu hình học duy lý), bởi vì khảo sát một khái niệm không thể cho ta biết có thể có hay không một sự vật tương ứng với nó, có hay không một giá trị hoặc hiện thực khách quan.
[9] Sự khác biệt giữa chuẩn tắc và công cụ có thể đã bắt nguồn từ Epikouros*. Trong khi một công cụ được hiểu là một tập hợp các quy tắc để có được tri thức chứng minh, và có thể mở rộng hiểu biết của ta, thì một bộ chuẩn tắc chỉ đơn thuần là một tập hợp các nguyên tắc để phân biệt giữa các phán đoán đúng và các phán đoán sai. Một trong các tuyên bố trung tâm của Kant, ở đây và trong PPLTTT (1781, 1787), là lô-gic học phổ quát không phải là một công cụ mà chỉ đơn thuần là một bộ chuẩn tắc. Điều ông muốn nói là chúng ta không thể mở rộng hiểu biết của mình bằng các nguyên tắc lô-gic như nguyên tắc không mâu thuẫn. Qua tuyên bố này, Kant bác bỏ siêu hình học duy lý, bởi vì các triết gia thuộc trường phái trên – Gottfried W. Leibniz* và Christian Wolff* – đều nghĩ rằng phân tích lô-gic có thể mở rộng tri thức của chúng ta về thế giới. Wolff, chẳng hạn, từng lập luận rằng nguyên tắc túc lý trong siêu hình học có thể đã bắt nguồn từ nguyên tắc không mâu thuẫn của lô-gic học phổ quát.
[10] Từ dùng trong các văn bản: Vernunft, reason, raison. Có thể dịch là: lý trí, trí năng, lý tính (TĐTHK). Ở đây, tôi dịch theo truyền thống là lý trí, sẵn sàng dùng trí năng, nhưng dành từ lý tính để dịch Rationalität, rationality, rationalité trong các từ điển thuật ngữ khoa học và triết học phổ thông. Theo Kant, trong khi chức năng của giác năng là thống nhất những ngoại hiện, bằng các phán đoán đặt những sự vật được cho trong trực giác và nhận biết bởi cảm tính dưới các khái niệm, thì chức năng của lý trí là thống nhất những khái niệm (quy luật của giác năng), bằng cách đặt chúng dưới các nguyên tắc (xem ct 2). Và trong những suy diễn của nó, lý trí nỗ lực tạo ra tính hệ thống trong sơ đồ khái niệm vốn có, bằng cách đặt sự đa tạp của các bộ khái niệm dưới một lượng nguyên tắc nhỏ nhất có thể, và qua đó thống nhất sự hiểu biết của ta.
Khi đặc trưng hoá lý trí như vậy, Kant bác bỏ cả quan điểm duy lý về lý trí như ở Descartes (một ‘nguồn sáng’; khả năng hiểu biết tức thì về Thượng Đế, thế giới và bản chất của linh hồn; một ‘trí tuệ trực giác’), lẫn quan niệm duy nghiệm về lý trí như ở Hume (hoàn toàn thụ động hay bất lực; nô lệ tiềm năng của đam mê). Theo Kant, cả hai quan điểm trên đều sai, vì đều giả định rằng tinh thần chỉ có một khả năng hiểu biết như nguồn nhận thức về thế giới, thao tác của trí tuệ một bên, thao tác của giác quan bên kia. Ngược với cả hai, Kant lập luận rằng hiểu biết của ta đòi hỏi sự hợp tác của hai khả năng: cảm tính (ông gọi là năng lực cấp thấp), và trí tuệ (năng lực cấp cao). Về năng lực cấp cao, trong PPLTTT (1781, 1787), Kant tập trung trên sự phân biệt giữa giác năng và lý trí; tuy nhiên, trong PPNLPĐ (1790), Kant lại chia nó thành ba khả năng riêng biệt: khả năng của giác năng, khả năng của phán đoán và khả năng của lý trí, với khả năng của phán đoán như trung gian giữa lý trí và giác năng, một cách nào đó.
Mặt khác, Kant giải thích bản chất của giác năng và lý trí qua bốn khác biệt rõ ràng nhưng tương quan. Thứ nhất, giác năng là khả năng lập khái niệm, trong khi lý trí là khả năng lập Ý niệm (Idee, idea – xem thêm ở TĐTHK). Thứ hai, giác năng là khả năng làm phán đoán, trong khi lý trí là khả năng làm tam đoạn luận. Thứ ba, giác năng là khả năng lập quy luật, trong khi lý trí là khả năng lập nguyên tắc. Và cuối cùng, Kant cho rằng lý trí là khả năng đòi hỏi và tìm kiếm cái vô điều kiện, tức là một giải thích hoặc biện minh trọn vẹn, hoàn toàn đầy đủ – cái nền tảng của tư duy, nói cách khác. Tuy nhiên, không phải chỉ vì lý trí đòi hỏi cái vô điều kiện mà một cơ sở như vậy tồn tại, và có thể được phát hiện. Nhầm lẫn đòi hỏi chủ quan của lý trí này như một hiện thực khách quan của thế giới là kết quả của thứ thao tác Kant gọi là ‘biện chứng của lý trí’, và là nguồn gốc của thứ ảo tưởng ông gọi là ‘ảo tưởng siêu nghiệm’.
[11] Từ dùng trong các văn bản: Aesthetik, aesthetics, esthétique. Có thể dịch là: mỹ học, cảm năng học (TĐTHK). Do aisthanomai, từ Hy Lạp có nghĩa là nhận biết, cảm nhận, thường được truyền thống triết học dùng để chỉ những sự kiện liên quan tới giác quan và cảm giác. Alexander G. Baumgarten* là người đầu tiên dùng từ này để chỉ loại sự kiện liên quan tới những phán đoán về sở thích, những cảm nhận về cái đẹp. Ông lập luận rằng kinh nghiệm về cái đẹp bao hàm loại phán đoán về sở thích – những đánh giá dựa trên cảm giác thích thú hoặc khó chịu trước đối tượng, đồng thời định nghĩa sở thích như khả năng phán xét dựa trên cảm giác hơn là trí tuệ, và đặt tên cho cái khoa học nghiên cứu loại phán đoán về sở thích, loại kinh nghiệm về cái đẹp và các đề tài liên quan này là mỹ học. Trong PPLTTT (1781, 1787), Kant cho rằng không thể có một khoa học về sở thích, bởi vì không thể có những nguyên tắc tiên nghiệm về khả năng cảm xúc, và tuyên bố ông chỉ dùng từ Aesthetik theo nghĩa truyền thống để chỉ những nghiên cứu về cảm năng trong đối lập với giác năng. Theo nghĩa cảm năng học này, đối tượng của Aesthetik là khía cạnh phi-khái-niệm của kinh nghiệm, và khi nghiên cứu xem liệu chúng ta có thể biết gì về khía cạnh phi-khái-niệm này của kinh nghiệm một cách tiên nghiệm chăng, ông kết luận rằng cho con người thì kinh nghiệm cảm quan nhất thiết phải có kích thước không gian-thời gian. Tuy nhiên, vào thời điểm viết PPNLPĐ (1790), Kant đã đổi ý kiến và lập luận rằng có thể có các nguyên tắc tiên nghiệm chi phối những phán đoán về sở thích, nghĩa là có thể có một khoa học về sở thích – nói cách khác, ông tán thành sự sử dụng từ Aesthetik ở Baumgarten để chỉ việc nghiên cứu có hệ thống khả năng phán đoán về sở thích. Như vậy, đoạn văn được trích ở trên trong quyển Logik này (1800) lại gần với quan điểm của ông trong PPLTTT hơn là trong PPNLPĐ. Phải giải thích sự so le này như thế nào? Ở đây, người dịch chỉ ghi nhận vấn đề mà không thử đưa ra giải đáp nào, vì mọi giải thích đều chỉ là giả thuyết không thể kiểm chứng.
[12] Alexander Gottlieb Baumgarten (1714-1762): triết gia Đức, chịu ảnh hưởng của Leibniz* và Wolff*. Ông được xem là người đã đưa Mỹ học vào Triết học như khoa học về sở thích, ở đấy những biểu tượng cảm giác được đánh giá như một phương thức hiểu biết độc lập với, nhưng không thấp kém hơn, lý trí. Tác phẩm chính: Meditationes philosophicae de nonnullis ad poema pertinentibus (1735); Metaphysica (1739); Ethica philosophica (1740); Aesthetica (1750-1758).
[13] Henry Home (1696-1782): nhà văn, triết gia, thẩm phán người Scotland. Trở thành Lord Kames năm 1752. Tác phẩm liên quan nói ở đây: Elements of Criticism (1762).
[14] Lô-gic học phổ thông và phổ quát chỉ quan tâm đến cái hình thức của tư duy, và do đó, chỉ có thể cung cấp cho ta các quy luật của tư duy (xem chú thích 8); lô-gic học siêu nghiệm, trái lại, quan tâm tới đối tượng tiên nghiệm của tư duy, và theo Kant, cái đối tượng tiên nghiệm duy nhất của tư tưởng con người là không gian-thời gian, hay cái Kant gọi là các mô thức của trực giác (chúng ta chỉ có trực quan về những sự vật có thể tồn tại trong không gian và/hay thời gian mà thôi). Nhưng lô-gic học siêu nghiệm có thể là thứ lô-gic của chân lý, bởi vì lô-gic học siêu nghiệm khảo sát tiên thiên quan hệ giữa khả năng lập khái niệm (năng lực của giác năng) với khả năng qua đó vật thể được cho trong trực giác (năng lực trực quan), và do ta biết trước mọi kinh nghiệm rằng không gian và thời gian là các mô thức của trực giác, nên rốt cuộc, lô-gic học siêu nghiệm khảo sát quan hệ giữa những khái niệm của giác năng với không gian-thời gian. Và bởi vì lô-gic học siêu nghiệm liên quan tới quan hệ tiên nghiệm giữa khái niệm với đối tượng vật thể nói một cách tổng quát như vậy, nên kết quả là nó có thể cho ta biết tiên thiên rằng một đối tượng có thể tồn tại tương ứng với một khái niệm nhất định nào đấy hay không – và đối tượng chỉ tồn tại nếu nó thuộc vào loại sự vật có thể cho trong không gian-thời gian.